Văn hóa phi vật thể của người Pu Péo ở Hà Giang
Người Pu Péo ở Hà Giang chỉ có khoảng 600 người trên tổng dân số trong toàn tỉnh, sinh sống chủ yếu tại các xã Phố Là (huyện Đồng Văn), Sủng Tráng và Phú Lũng (huyện Yên Minh), Yên Cường (huyện Bắc Mê).
Cho dù với số dân không đông, nhưng người Pu Péo lại sinh sống phân tán trên dải đất Việt – Trung. Đó chính là miền đất được mệnh danh “Cao nguyên đá” bởi địa hình nhiều đá gốc chưa phong hóa, còn để lại những “thạch thụ” làm hạn chế rất nhiều đối với việc canh tác. Người Pu Péo không ở trên núi cao như người H’mông mà thường chọn những bồn dựa giữa núi để lập làng. Làng bản của người Pu Péo đều thuộc vùng núi giữa, mang đậm tính chất của khí hậu nhiệt đới. Với một điều kiện tự nhiên như vậy, người Pu Péo có thể làm ruộng nước và vừa vận dụng được những thế mạnh của rừng trong canh tác.
Trong kinh tế người Pu Péo lấy nông nghiệp trồng trọt làm cơ sở chủ đạo, bên cạnh đó còn có sự bổ trợ của chăn nuôi, thủ công nghiệp gia đình, hái lượm và buôn bán nhỏ.
Lễ cúng thần rừng của người Pu Péo
Cũng như các dân tộc khác, người Pu Péo ở Hà Giang có một kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể đồ sộ chưa được các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đề cập trong các công trình nghiên cứu và sưu tầm. Chính vì vậy, tại bài viết này tôi xin đưa ra một số giải pháp cần được bảo tồn và phát huy những giá trị phi vật thể của người Pu Péo ở Hà Giang.
Người Pu Péo tin vào sự tồn tại của ba thế giới. Ngoài thế giới thực, còn có sự tồn tại của một thế giới khác ở trên trời, mà con người không kiểm soát được - thế giới của các thần linh. Trong thế giới đó, ngoài các vị thần còn có những người trời, có đặc điểm là mặt đỏ và thường đeo dao gỗ ở cổ. Thế giới thứ ba ở dưới mặt đất với những con người chỉ bé bằng ngón tay và thường đeo dao ở khoeo chân. Thời gian của thế giới thực và hai thế giới kia luôn ngược nhau, trước kia ba thế giới được thông qua bằng chiếc thang. Truyền thuyết của người Pu Péo kể lại rằng quả bầu chính là vật đã cứu sống tổ tiền của dân tộc này chính vì vậy: con cháu dân tộc này khi cúng tổ tiên bao giờ cũng bày thức ăn lên nong chứ không bày lên mâm; và khi hành lễ, bao giờ thầy cúng cũng phải cầm một quả bầu. Người Pu Péo sử dụng lịch Nhà Chu, mỗi giáp có 12 năm, mỗi năm chia thành 12 tháng, mỗi tháng có 29 ngày hoặc 30 ngày, mỗi ngày có 12 giờ. Cứ 3 năm, sẽ có một năm nhuận, hoàn toàn khớp với cách tính năm, tháng và ngày của Âm lịch ngày nay. Vì vậy, họ cũng ăn Tết Nguyên đán như nhiều dân tộc khác.
Người Pu Péo ở Hà Giang vẫn còn lưu giữ trong ký ức cộng đồng một kho tàng văn nghệ dân gian phong phú. Những bài cúng của họ thực chất là những áng cổ văn, kể về nguồn gốc loài người, về nạn đại hồng thuỷ và lịch sử du canh, du cư của họ từ đời này sang đời khác. Trong đám cưới, trai gái thường hát đối đáp mà nội dung của các bài hát thường nói nhiều về tình yêu lứa đôi và biểu thị khát vọng hạnh phúc. Ngoài ra, họ còn có nhiều thành ngữ, tục ngữ, được sử dụng khá nhuần nhuyễn trong giao tiếp hàng ngày. Đó là một lối truyền đạt các tri thức bản địa hữu hiệu, một biện pháp giáo dục cộng đồng hiệu quả. Đáng tiếc cho đến nay việc nghiên cứu giá trị văn học dân gian của người Pu Péo chưa thực sự được chú ý.
Do vậy, phong tục tập quán, lễ hội, dân ca, cưới xin theo phong tục riêng của người Pu Péo... đặc biệt là lễ cúng thần rừng (là lễ cúng cầu Thần Rừng, thần Đá, Thần Suối phù hộ sự bình yên cho người Pu Péo có cuộc sống ấm no, hạnh phúc) đang ngày dần bị mai một cần được khôi phục, bảo tồn và phát huy.
Để tránh những sự mất mát và mai một đáng tiếc trong tương lai chúng ta cần có biện pháp bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Pu Péo như sau:
Một là, nâng cao nhận thức quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó khẳng định nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các văn hóa dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc là chủ yếu và cần được thực hiện liên tục, thường xuyên.
Hai là, rà soát thống kê văn hóa vật thể, phi vật thể của các dân tộc thiểu số một cách đầy đủ, có chính sách đầu tư thoả đáng cho các chương trình, dự án nghiên cứu bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Đặc biệt là đầu tư cho công tác sưu tầm, nghiên cứu các di sản giàu tính nhân văn và mang đậm bản sắc của các dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang.
Ba là, có chính sách khuyến khích các nghệ nhân, cử cán bộ xuống cơ sở khảo sát, ghi chép, xây dựng kế hoạch mở lớp để các nghệ nhân truyền dạy dân ca cho thế hệ trẻ để bảo tồn được tốt hơn. Có chính sách ưu đãi và tạo điều kiện cho con em dân tộc Pu Péo được học tập tại các trường đại học, cao đẳng theo chế độ cử tuyển của Nhà nước.
Bốn là, tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) và Nghị quyết TW 10 (khóa IX) về xây dựng và phát triển nền Văn hóa Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý sai phạm trong mọi hoạt động văn hóa của dân tộc như: Tổ chức lễ hội, tang ma, cưới xin và các hoạt động khác...
Có như vậy, chúng ta mới bảo tồn và phát huy được các giá trị văn hóa của dân tộc. Vì, từ các phong tục tập quán, văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số là một nét đẹp trong đời sống văn hóa của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nét đẹp ấy nó đã thôi thúc mỗi chúng ta tìm về cội nguồn của mình một cách tận tâm, tận ý. Đây cũng chính là xuất phát từ nhu cầu chính đáng của toàn xã hội phải làm sao gìn giữ nó. Mỗi dòng họ, mỗi tộc người Việt Nam đều có một nét văn hóa độc đáo riêng, chúng ta khơi dậy và bảo tồn, duy trì được những nét văn hóa ấy thì bản sắc văn hóa Việt Nam càng được sâu sắc và bền vững. Vì vậy việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống là một vấn đề quan trọng không những của dân tộc Pu Péo ở Hà Giang, mà của cả các dân tộc khác trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Nguyễn Thị Lượng