Người Pà Thẻn

Người Pà Thẻn còn có tên gọi khác là Pá Hưng hay Tống. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Pà Thẻn ở Việt Nam có dân số 6.811 người, có mặt tại 32 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Pà Thẻn cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (5.771 người, chiếm 84,7% tổng số người Pà Thẻn tại Việt Nam), Tuyên Quang (877 người), Đồng Nai (27 người), Thái Nguyên (25 người), Hà Nội (20 người)...

Theo truyền thuyết xưa của người Pà Thẻn kể lại rằng: Trước kia tổ tiên của họ ở vùng Than Lò (Trung Quốc), các dân tộc xung quanh gọi họ là Húng Dao hoặc là Thầu Dao. Người Pà Thẻn di cư đến nước ta cách ngày nay vào khoảng từ 200 năm đến 300 năm, cùng với các nhóm người Dao khác ở nhiều đoạn và những thời điểm khác nhau. Truyện kể về quá trình vượt biển di cư đến Việt Nam của người Pà Thẻn ngày nay vẫn được các cụ già nhắc đến. Căn cứ vào địa bàn cư trứ của người Pà Thẻn, họ cư trú phân chia ra làm ba vùng, vùng nhất gồm các xã Lĩnh Phú (Chiêm Hoá), Trung Sơn (Yên Sơn) ở đây họ sống xen kẽ với người Tày, mọi sinh hoạt, văn hoá, xã hội cũng gần giống người Tày quanh vùng, như cách ăn mặc thể hiện trong trang phục, nhà ở, v.v... Vùng thứ hai gồm các xã Hữu Sản, Bắc Quang, Hồng Quang (Chiêm hoá) tại đây người Pà Thẻn sống rải rác xen lẫn với người Dao, người Tày và người Thuỷ. Vùng thứ ba bao gồm các xã Tân sinh, Tân Lập, Yên Bình ở tả ngạn sông Gậm huyện Bắc Quang (Hà Giang) ở đây họ sống tương đối tập trung nên giữ được nét văn hoá, phong tục tập quán, cổ truyền gần như nguyên vẹn.

Các bản của người Pà Thẻn thường tập trung ven suối, thung lũng hoặc triền núi thấp. Có làng đông tới 30-40 nóc nhà.

Dân tộc Pà Thẻn có nhiều dòng họ. Những người cùng họ coi nhau như những người thân thích có chung một tổ tiên, không được lấy nhau. Trong làng có một dòng họ to nhất. Người Pà Thẻn nhận mình là con cháu của tám họ như (Phù, Tần, Táy, Hưng, Sình, v.v...) ngoài ra còn là họ Bàn, họ Triệu. Mỗi họ có hai tên gọi, một theo âm Hán, và một được dùng giao tiếp xưng hô giữa những người đồng tộc, thí dụ họ Phù gọi theo tiếng dân tộc Pà Thẻn là Ca Bồ, họ bình là Ca Sơ, họ Dừ là Ca Đo.

Xã hội cũ của người Pà Thẻn trai gái kết hôn rất sớm, ở lứa tuổi 15 đến 16. Trong quan hệ hôn nhân giữa những người làng dòng họ bị ngăn cấm tuyệt đối, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng bền vững, có nghĩa vụ nuôi dạy con cái, ít có hiện tượng ly hôn, ngoại tình và lấy vợ lẽ, trừ một số là trường hợp vì không có con. Ai vi phạm về đạo đức xã hội là bị cả cộng đồng lên án, cho nên ít xảy ra những hiện tượng trái với đạo đức trái với luân thường đạo lý. Xưa kia người Pà Thẻn còn nặng về nghi thức hôn nhân cưới xin phức tạp. Số tiền nhà gái thách cưới rất nặng. Người Pà Thẻn có tục ở rể theo hạn định là 12 năm, ít nhất cũng là 6 năm, còn 6 năm về sau có thể thế chấp bằng tiền. Nếu gia đình đó mà không có con trai thì chú rể đó phải ở hẳn bên nhà vợ. Người ở rể phải thờ ma họ vợ, chia ra làm hai phần nửa con cái theo họ bố, nửa theo họ mẹ.

Về trang phục, cái độc đáo của trang phục Pà thẻn là ở trang phục nữ, được biểu hiện ở lối tạo dáng áo dài, cách dùng màu và lối mặc, tạo nên một phong cách riêng. Nam thường mặc áo quần màu chàm. Đó là loại áo cánh ngắn xẻ ngực, quần lá tọa, giống phong cách trang phục các dân tộc Tày,... Phụ nữ Pà thẻn đội khăn màu chàm quấn thành nhiều vòng trên đầu. Đó là lối đội khăn chữ nhất quấn thành mái xòe rộng như mũ, hoặc lối đội khăn hình chữ nhân giản đơn hơn cũng tạo thành mái nhơ ra hai bên mang tai. Áo có hai loại cơ bản là áo ngắn và áo dài. Áo ngắn xẻ ngực, cổ thấp, màu chàm, cổ làm liền với hai vạt trước. Áo này thường mặc với váy rộng nhiều nếp gấp, màu chàm. Áo dài là loại xẻ ngực, có thể gọi là áo lửng, cổ thấp liền hai vạt trước, khi mặc vạt phải đè chéo lên vạt trái, phía dưới của vạt phải nhọn xuống tạo thành vạt chính của thân trước. Ống tay và toàn bộ thân áo được trang trí với lối dùng màu nóng sặc sỡ. Áo này mặc với váy hở dệt thêu hoa văn đa dạng (hình thập ngoặc, hình quả trám...). Giữa eo thân áo được thắt dây lưng là loại được dệt thêu hoa văn. Phụ nữ ưa mang nhiều đồ trang sức vòng cổ, vòng tay,... Cùng với áo và váy, phụ nữ có a thứ (vừa giống cái yếm vừa giống tạp dề). Nó được mang như mang tạp dề nhưng không có công dụng như tạp dề. Màu sắc chủ yếu trên phụ nữ là đỏ, đen, trắng. Hoa văn chủ yếu được tạo ra bằng dệt.

Sinh hoạt văn hóa dân gian của dân tộc Pà Thẻn khá phong phú, thể hiện qua kho tàng truyện cổ tích, các làn điệu dân ca, hát ru, các điệu nhảy múa, các loại nhạc cụ (khèn bè, đàn tầy nhậy, sáo trúc...).

Trước kia, người Pà Thẻn sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, cây lương thực chính là lúa và ngô. Trên một đám nương người Pà Thèn chỉ canh tác từ hai đến ba vụ, tuỳ theo độ màu mỡ của đất, thu hoạch xong lại bỏ hoang hoá, họ kéo nhau đi tìm vùng đất mới, tiếp tục với công việc phát nương làm rẫy. Phương thức canh tác của người Pà Thẻn là dùng gậy nhọn đầu để chọc lỗ gieo hạt. Do tình trạng nền sản xuất thấp kém, lạc hậu kém phát triển như vậy, người Pà Thẻn xưa kia nhiều năm bị hạn hán, sâu bệnh thú rừng phá hoại, thu hoạch không đủ ăn, đời sống bấp bênh, nhiều người phải bỏ vào rừng kiếm rau và những cây có củ để sống. Từ ngày có phong trào định canh, định cư, áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất cây trồng, người Pà Thẻn đã quy tụ sống tập trung thành những làng có dân cư đông đúc, xây dựng hợp tác xã tuỳ theo địa phương số nhà có trong mỗi làng khác nhau.

Ngày nay, người Pà Thẻn đã có cuộc sống đủ ăn đủ mặc và tăng trưởng kinh tế, đi đôi với việc thực hiện chương trình 135-120 xóa đói giảm nghèo là một bước đi vững chắc cho tương lai, người Pà Thẻn càng ra sức xây dựng cuộc sống mới và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hoài Nam

Top