Làng nghề khăn xếp Giáp Nhất

Một trong những bộ trang phục truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ hội, tiệc làng của người Việt là áo the khăn xếp. Mặc dù cuộc sống hiện đại, trang phục này đã không còn được sử dụng nhiều, nhưng vào thời xưa, chúng luôn là niềm mơ ước của mọi người dân, thể hiện sự sang trọng, lịch sự. Thôn Giáp Nhất thuộc thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định được coi là nơi duy nhất ở miền Bắc còn sản xuất khăn xếp. Dù gặp nhiều khó khăn nhưng người dân ở thôn Giáp Nhất vẫn giữ được nghề làm khăn xếp đã được lưu truyền từ nhiều đời nay.

Thôn Giáp Nhất thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định có khoảng 4.800 khẩu với 1.050 hộ, trong đó có khoảng 140 hộ làm nghề. Người dân nơi đây không ai biết nghề này có từ bao giờ và ai là ông tổ của nghề, chỉ biết nghề đã xuất hiện và có lịch sử hình thành, phát triển tương đối lâu đời.

Khăn xếp được chia làm 3 loại: Khăn dành cho nam, cho nữ và loại khăn cả nam, nữ đều đội được. Khăn dành cho nam thường là loại khăn quang, đằng sau phía trên búi tó dựng đứng, đằng trước phía trên là lưỡi trai, nếp và vành. Tuỳ thuộc vào giá đồng mà khăn có các màu khác nhau như đỏ, xanh, vàng. Trước đây, khăn được làm phẳng, sau đó thêu thùa đính kèm kim sa thủ công. Bây giờ, việc làm khăn đơn giản hơn khi chuyển sang bằng máy, quấn bằng keo công nghiệp và hình được vẽ bằng keo rồi phủ nhũ lên.

Phần lưỡi trai của khăn xếp trước đây có 2 nếp làm bằng hình chữ Nhân, bên trái đè lên bên phải. Nhưng bây giờ làm công nghiệp thì chữ Nhân được làm phẳng cho dễ làm. Khăn xếp bình thường chất liệu thường là phi bóng, sa tanh nhưng hàng đặt có thể được làm bằng gấm.

Nguyên liệu để làm khăn xếp gồm có sơn, nhũ, kim xa, keo, mút, vải. Vải được mua ở các nhà máy ở Hà Nội hoặc nhập từ Trung Quốc, mút mua ở Nam Định. Chất liệu để làm khăn trước đây là chất liệu cổ là lượt, nhiễu hay vải sa tanh cũ, cốt làm bằng báo. Bây giờ, khăn xếp được làm với chất liệu tốt hơn. Vải quấn là loại vải tấm các màu bằng sa tanh, bóng, phi quấn ở ngoài, bên trong là vải sợi lót, cốt khăn làm bằng mút.

Việc làm khăn xếp hoàn toàn thủ công, 1 chiếc khăn xếp 4 quấn 7 nếp (trước đây) được làm rất “kỳ công” với nhiều công đoạn. Lớp sơn lót được làm bằng ni-lon, cốt khăn được làm bằng bấc đèn (nay thay bằng mút). Vải quấn bằng nhiễu hoặc sa tanh (nay thay bằng nhiều loại vải khác nhau như nhung, gấm, phi bóng…). Khăn xếp có 2 loại, loại dùng cho nam, loại dùng cho nữ. Hai loại phân biệt bằng bản, bản phụ thuộc vào nếp. Khăn nam thường có bản từ 5-6 phân, nữ là 3 phân. Khăn nam đằng sau phía trên búi dựng đứng, phía trước mặt là lưỡi trai hình chữ nhân, trên là nếp, vành. Đối với khăn nữ, trước đây làm phẳng, sau này do nhu cầu thẩm mỹ phát triển được thêu thùa, đính kim sa cho đẹp. Trước đây, người trong thôn chỉ làm duy nhất loại khăn xếp màu đen. Hiện nay, nhằm đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng, khăn xếp được đa dạng mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc. Ngoài khăn đội bình thường, còn có các loại khăn nam, nữ dùng cho tế, lễ, phục vụ lễ hội. Người trong thôn còn làm thêm các loại khăn dùng cho các loại hình nghệ thuật dân tộc được sử dụng trong các vở diễn chèo, tuồng, hát chầu văn… Ngoài ra, để đáp ứng những nhu cầu khác như các loại khăn đội của cô dâu, khăn mừng thọ… cũng được “sản xuất”. Cũng do nhu cầu sử dụng thay đổi, số quấn, số nếp của khăn cũng thay đổi theo. Thay vì 4 quấn 7 nếp như trước, giờ đa số khăn xếp trong làng được quấn với 6 quấn 9 nếp.

Hiện, thôn Nhất có 7 cơ sở của 7 hộ chuyên sản xuất khăn xếp. Mỗi cơ sở lại đầu tư nguyên vật liệu thuê khoảng 20 gia đình khác làm, theo phương thức mỗi hộ chuyên làm một công đoạn của chiếc khăn. Giờ đây, mỗi công đoạn đều có sự hỗ trợ của máy móc. Người làm nghề trong thôn đã sử dụng máy khâu để khâu khăn xếp, muốn in hình lên khăn đã có khung sẵn, chỉ cần phủ nhũ lên. Các nếp khăn cũng đã chắc hơn xưa nhờ sử dụng keo dán thay cho hồ gạo… Năng suất lao động nhờ đó cũng tăng lên. Trước đây, một người khâu tay “thành thạo” chỉ khâu được khoảng 10 cốt khăn/ngày. Hiện nay, nhờ có máy móc, một người làm nhanh có thể khâu được 100 cốt/ngày.

Người làng bận rộn quanh năm với việc làm khăn, nhưng khăn chỉ bán chạy nhất vào các tháng Giêng, tháng Hai và tháng Tám hàng năm, thời điểm diễn ra nhiều lễ hội. Sản phẩm làm ra chủ yếu được đưa đến phố Hàng Quạt (Hà Nội) rồi được xuất đi cả nước, trong đó thị trường miền Bắc là chủ yếu.

Trước năm 1947 người làng đã học và làm nghề. Đến giai đoạn những năm 1950, người làng vẫn làm và mang sản phẩm đi khắp nơi tiêu thụ. Song, đến năm 1959, do cuộc sống khó khăn, sản phẩm làm ra ít tiêu thụ được nên người dân cũng dần bỏ nghề. Khi đó, trong làng chỉ còn duy nhất cụ Đoàn Thị Thùy cùng một người chị em tiếp tục làm và giữ nghề. Từ năm 1990, người dân trong làng bắt đầu quay lại với nghề, chung tay khôi phục làng nghề. Sản phẩm khăn xếp lúc này đa dạng hơn nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Người dân đã có thể sống được bằng nghề. Những năm 1990, 1992, người dân nơi đây chỉ làm khăn đen nhưng sau đó bắt đầu làm khăn màu và khăn hầu. Ngày nay, do nhu cầu của thị trường ngày càng nhiều đã kéo theo sự ra đời và phát triển nhiều loại khăn khác nhau như khăn quang dùng trong tế lễ (nam giới đội), khăn cô, khăn tế, khăn hầu các giá đồng.

Ngày nay, khăn xếp thường được dùng trong các ngày hội, lễ mừng thọ hay phục vụ các đoàn chèo, tuồng, chầu văn hay xuất hiện trong các sự kiện quan trọng của quốc gia như Hội nghị APEC 2006.

Ngoài khăn xếp ra, người dân ở đây còn làm được tất cả các loại khăn chầu, khăn cho người dân tộc, khăn thổ mường, khăn cho các rạp hát và các loại áo như áo ngự, áo hầu đồng, áo the. Người trong thôn tự hào, hầu như không có sản phẩm “dân tộc” nào là họ không làm được. Để bảo đảm chất lượng sản phẩm, các cơ sở sản xuất khăn luôn chọn nguyên liệu cẩn thận. Các loại sơn, nhũ, kim sa, keo, mút… đều phải được lựa chọn công phu. Vải được chọn may phải là loại vải lấy từ làng Vạn Phúc (Hà Nội).

Đứng trước nhiều khó khăn và thách thức, song bằng sự nỗ lực, cố gắng với suy nghĩ nghề đã ngấm vào máu và đã trở thành cuộc sống hàng ngày nên người dân nơi đây vẫn đang bám nghề, cố giữ lấy nghề cha ông để lại. Thu nhập mà nghề làm khăn xếp đem lại dù không quá thấp, song so với làng nghề cơ khí bên cạnh thì người dân không còn nhiều người mặn mà theo nghề, nên chủ yếu làm nghề vẫn là các cụ già và phụ nữ. Bên cạnh đó, "đầu ra" của sản phẩm cũng gặp nhiều khó khăn. Để làng nghề có thể trụ vững, rất cần có sự quan tâm, hỗ trợ của các cấp chính quyền, ngành chức năng trong việc nghiên cứu, tìm ra biện pháp để duy trì, phát triển để một làng nghề độc đáo, làng khăn xếp Giáp Nhất, bởi các làng nghề truyền thống, ngoài giá trị kinh tế còn mang nhiều giá trị văn hóa, xã hội. Việc duy trì sản xuất cũng chính là tiếp tục giữ gìn những giá trị văn hóa, lịch sử bao đời của cả dân tộc.

Thanh Huyền

Có thể bạn quan tâm

Top