Chùa Tĩnh Lự - Một Quốc tự - Một hành Cung

Chùa Tĩnh Lự hay tên chữ là Tĩnh Lự Thiền Tự, nay thuộc thôn An Quang, xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Chùa tọa lạc trên núi Yên Sơn, thuộc dãy Đông Cứu hay còn gọi là Thiên Thai, ẩn mình giữa khúc uốn cong của rặng núi ấy, mặt trông ra dòng Thiên Đức huyền thoại và lịch sử, nên dẫu giờ đây chỉ còn là một thời vang bóng, nhưng cảnh quan vẫn toát lên vẻ u tịch, thâm nghiêm chốn cửa Thiền, lồng lộng cảnh sông nước, mây trời, núi non, mà ta thường gặp nơi sơn thủy của những Thiền Tự cổ xưa. Nơi đây, quả xứng danh được chọn là chốn thờ tự của những bậc Quân vương và xứng đáng là một trong những trung tâm Phật giáo của Đại Việt.

Sử sách và tài liệu vật chất mách rằng, Chùa Tĩnh Lự được xây dựng từ thời Lý, nhưng trải qua bao biến cố của lịch sử, khi nhỏ bé, khiêm nhường, lúc uy nghi tráng lệ, để rồi bị tàn phá trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nay vẫn hiện diện như một thực thể sống, vì những giá trị vật thể và phi vật thể của nó luôn chứa đựng trong ký ức dân gian, như là một hằng số trường tồn, mà thời đại hôm nay cần phải có trách nhiệm làm sống lại những giá trị ấy của cha ông bằng nhiều cách, thiết nghĩ Tĩnh Lự là nơi rất xứng tầm.

Việc sử lược chép rằng, vào năm 1055, Vua Lý Thánh Tông “Xây chùa Đông Lâm và Tĩnh Lự ở núi Đông Cửu”. Tài liệu vật chất thông qua những dĩ tồn văn hóa vật thể được nhà sư trụ trì, Đại đức Thích Minh Đạt, dầy công sưu tầm trong nhiều năm ở nơi đây, cho hay, lòng đất còn vật liệu xây dựng, còn đồ thờ tự, còn đồ dùng bằng gốm sứ từ thời Lý, thời Trần và thời Lê Trung Hưng, minh chứng cho một quá trình tồn tại dài lâu trong lịch sử của ngôi chùa này, chứng tỏ vai trò quan trọng của tín ngưỡng tâm linh, khi mà triều Lý chọn Đông Cứu  núi thiêng và các triều đại kế tiếp noi theo để xây dựng nơi đây như một Quốc tự.

Sử sách và di tích hiện tồn cho hay, những quả núi thiêng, những ngôi chùa mang tính Quốc tự, không chỉ có ở Đông Cứu, Chùa Tiêu, Chùa Phật Tích, Chùa Trăm Gian, Chùa Long Đọi, Chương Sơn… Khảo cổ học cho biết, chúng có quy mô cực kỳ to lớn, được xây dựng bằng những vật liệu kiến trúc bền vững và mang phong cách cung đình đậm nét. Nhà nước phong kiến đã có ý thức rằng, những chỗ tụ khí thiêng, cần phải xây dựng nơi thờ tự để đảm bảo cho sự bền vững của non sông đất nước, theo đó, quốc khố được huy động, nhân tài được đầu tư, sức người được đóng góp, để xây dựng những ngôi chùa mang tầm vóc Quốc tự. Và, khi đã là Quốc tự, Vua và Hoàng gia cùng Triều đình hàng năm phải về hành lễ với một đội tùy tùng và Hoàng gia đông đúc, lại ở xa Kinh thành, đi lại vô cùng khó khăn, thì đương nhiên, Chùa phải đi liền với Hành cung, làm nơi ở và nghỉ của Vua trong những ngày hành lễ.

Hành cung thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn được xây dựng nhiều nơi, không chỉ ở Quốc tự. Tại quê hương để Vua và Hoàng gia về bái yết, thờ cúng tổ tiên. Tại những nơi có phong cảnh đẹp, sơn thủy hữu tình, thường ở ngoại vi Kinh thành, để Vua đến nghỉ ngơi, chơi ngắm, thư giãn. Sử sách ghi chép và khảo cổ học đã phát hiện khá nhiều hành cung ở những nơi khác nhau với những chức năng khác nhau mà Tĩnh Lự, theo tôi, không chỉ đến thời Chúa Trịnh, ngày từ thời Lý, đã là một phức hợp Chùa và Hành cung.

Có lẽ cũng vì thế, ngày từ khi mới thành lập. Tĩnh Lự đã có nhiều vị thiền sư đức cao, vọng trọng đến tu hành và truyền dậy Phật Pháp, Thiền sư Thảo Nhất, ông Tổ thứ 15 của Thiền phái Tỳ - Ni - Đa - Lưu - Chi là một ví dụ điển hình. Ông cũng chính là người truyền pháp cho đệ tử của mình là Tổ Chân Không tiếp bước sự nghiệp, để rồi, nổi tiếng đến mức Vua Lý Nhân Tông kính trọng không khác gì những vị công thần khai quốc, mời về Kinh thành giảng kinh Pháp Hoa. Sách Thiền sư Việt Nam chép: “Sư đến Pháp hội Chùa Tĩnh Lự núi Đông Cứu nghe giảng kinh Pháp Hoa, thoạt nhiên tỉnh ngộ. Cơ duyên thế hợp ấy, khác nào con rùa mù núp bóng cây”.

Đó là những Quốc sư của Đại Việt về trụ trì và giảng pháp ở Quốc tự Tĩnh Lự. Với vị trí và vai trò quan trọng như thế, nên ngôi chùa luôn nhận được sự quan tâm của Triều đình: “Tháng 5, mở hội khánh thành Chùa Tĩnh Lự” (Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư). Đó là năm 1119, sau 64 năm Chùa được khởi dựng và 9 năm sau khi Thiền sư Chân Không viên tịch.

Sau thời Trần, đến thời Lê sơ, xã hội Đại Việt có nhiều thay đổi và biến cố, khiến ảnh hưởng của Phật giáo không còn lớn như thời Lý, Trần. Những ngôi chùa mang tính Quốc tự, có quy mô to lớn không còn nhận được sự quan tâm của Triều đình, theo đó, bị xuống cấp, hoang tàn. Tĩnh Lự cũng không tránh khỏi những tác động khách quan ấy.

Thế nhưng, mùa Đông năm Ất Dậu (1645), Tĩnh Lự lại một lần nữa nhận được sự quan tâm đặc biệt của bậc Quân vương. Đó là khi Chúa Trịnh Tráng đi kinh lược vùng Đông-Bắc bằng thuyền, theo dòng Thiên Đức, đến chân núi Thiên Thai, gặp cảnh sông nước, núi non linh thiêng, đã hỏi ngọn ngành sự tích, để rồi, chuẩn tấu cho xuất 300 lạng bạc, giao cho Quận công Nguyễn Công Hiệp lo việc kiến thiết.

Một lần nữa, Tĩnh Lự trở thành một Quốc tự để các bậc công khanh, đại thần trong Vương triều Lê – Trịnh theo gương Triều đình, bỏ tiền công đức. Thái Thượng hoàng Lê Duy Kỳ 100 lạng bạc. Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc 40 lạng, Trịnh Tạc 50 lạng và Trịnh Lê 30 lạng.

Sau 3 năm khẩn trương xây dựng, năm 1648, Chùa được hoàn thành. Tĩnh Lự Thiền Bi Ký, do Tiến sĩ Nguyễn Duy Thì soạn thảo ghi rõ: “Chùa làm theo hướng cũ, rộng và dài, to nhiều so với trước. Tiền đường có 4 cửa cao rộng, tả hữu có dãy hành lang, thềm ngoài có cột bao quanh bằng đá, giữa chùa có lồi lên kè đá. Ngoài Chùa có bia đá lớn đặt trong nhà đá 4 chân cột, mái che chồng diêm 8 mái, cũng bằng đá. Nội tự có tòa sen óng ánh, trong tam bảo có bức hoa sen chín tầng rực rỡ, chạm khắc tượng Đức Phật giáng lâm và 3000 tòa đặt tượng La Hán lung linh”.

Văn bia cũng cho hay, sau khánh thành, Tĩnh Lự là một trong ba đại danh thắng ở vùng Đông-Bắc thời Đại Việt thế kỷ 17.

Bia đá chùa Tĩnh Lự

 Dường như là một sự tiếp nối truyền thống, Chúa Trịnh Tráng cũng cho xây ở đây một Hành cung – Hành cung Phúc Long, cũng là nơi nghỉ ngơi mỗi khi đưa Hoàng gia, Triều đình và Phủ Chúa về đây hành lễ. Hành cung ấy còn được tôn vinh là Phủ Chúa và núi Yên Sơn còn được gọi là Núi Phủ.

Đến thời Trịnh Căn, Trịnh Cương; Tĩnh Lự lại được tiếp tục sửa chữa và mở rộng Hành cung cực kỳ xa hoa tráng lệ mà sách Lịch Triều Hiến chương Loại chí của Phan Huy Chú còn ghi lại khá rõ ràng.

Hẳn là, Hành cung Phúc Long, dưới sự chỉ dẫn của sử liệu và ký ức dân gian, vẫn còn ẩn mình dưới lòng đất nơi đây. Đại Nam Nhất thống chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn còn thấy: “Cung cũ Phúc Long trên núi Thiên Thai, huyện Gia Bình thời Lê Vĩnh Thinh, nay còn nền cũ”.

Đến hôm nay, về Tĩnh Lự, chỉ còn một ngôi chùa đơn sơ và nhỏ bé, do chính quyền và nhân dân xây dựng với mong muốn lưu lại một thời vàng son của một trung tâm Phật giáo, một Quốc tự - một Hành cung. Di sản vật thể hiển lộ và quí giá là tấm bia Tĩnh Lự Thiền Tự Bi được khởi tạo năm 1648, niên hiệu Phúc Thái, với nội dung ghi lại việc Chúa Trịnh Tráng chủ trương cho trùng tu Chùa Tĩnh Lự với quy mô to lớn hơn và Quận công Nguyễn Công Hiệp được giao chủ trì thiết kế. Ngoài ra, là bảng ghi danh các công khanh, đại thần dưới triều Vua Lê, Chúa Trịnh cùng thiện nam, tín nữ có lòng hảo tâm công đức tiền bạc, trùng tu, mở rộng. Điểm đặc biệt của tấm bia này nằm ở kiến trúc độc đáo nơi nhà bia và đề tài trang trí vô cùng sinh động với sự Việt hóa các tích cổ để miêu tả đời sống vương phủ thời đại ấy. Đó là cảnh câu chuyện Sứ thần tâu những lời tốt đẹp (Sử thần sử xướng) và quan lại trong vùng đến yết kiến nhà Chúa đông đúc (Y Doãn canh nội sân). Có thể coi đây là tấm bia lạ trong hệ thống bia chùa Việt Nam và những hình ảnh trên bia là tư liệu quý giá, phản ảnh cảnh sinh hoạt, lối trang phục của xã hội phong kiến thời Lê – Trịnh thế kỷ 17, vốn còn lại rất ít ỏi trong kho tàng văn hóa nước nhà.

Một thời vàng son, nhiều triều đại là Quốc tự, Tĩnh Lự là một ngôi Chùa thiêng, được xây dựng trên một vùng núi thiêng, thiết nghĩ nó xứng đáng nhận được sự quan tâm của Nhà nước, của chính quyền và nhân dân, của những thiện nam, tín nữ, để sớm có một dự án khôi phục sao cho xứng tầm với giá trị vốn có và tri ân với những bậc tiền nhân đã sớm nhận ra và luôn coi đây là một vùng đất khí thiêng sông núi, giúp cho sự trường tồn và vững bền của vương triều, của giang sơn đất nước. Dự án khôi phục ấy còn thiết lập nên một hệ thống di tích lích sử, văn hóa, tâm linh ở vùng này, mà ít đâu có được, khi khách tham quan và hành hương viếng thăm Đền thờ Cao Lỗ Vương, qua Lệ Chi Viên đến đền Lê Văn Thịnh, như là một sự trở về với nguồn cội.

Top