Tái hiện lễ tế Nam Giao xưa của Triều Nguyễn
Theo quan niệm của người xưa, trời và đất là hai chủ thể sáng tạo ra nhân loại. Dưới các triều đại phong kiến, hằng năm đều có lễ tế trời đất. Đây là nghi thức được xếp vào hàng Đại tự (lễ lớn) của quốc gia tại các nước Đông Á. Lễ tế này được gọi là tế Giao. Nguyên nghĩa chữ “Giao” là vùng đất ngoài thành khoảng một trăm dặm. Ngày xưa, vào tiết đông chí, Vua tế trời ở Nam Giao, tiết hạ chí thì tế đất tại Bắc Giao, nên tế trời, đất gọi là tế Giao. Khi lấy Kinh thành làm trung tâm, người xưa phân biệt Giao gồm có bốn vùng Nam, Bắc, Đông, Tây với quan niệm: “Thiên phúc địa tải” (đất chở trời che), từ xa xưa, con người phải cúng trời và đất cầu “quốc thái dân an”, “thái bình thịnh trị”, và “phong điều vũ thuận” (mưa thuận gió hoà).
Đại diện lãnh đạo UBND tỉnh Thừa Thiên Huế là chủ lễ tế
Nhiều tài liệu cổ cho rằng, Việt Nam ngay từ những ngày đầu thoát khỏi ách thống trị ngàn năm của phương Bắc đã sớm tiếp nhận nghi lễ tế Giao. Ngoài Triều Trần, các triều đại khác như Lý, Hồ, Lê cho đến Lê Trung Hưng, rồi các chúa Nguyễn ở miền Nam cho đến Triều Tây Sơn đều tổ chức tế Giao. Sang thời Nguyễn, tế Giao được xem là lễ tế có qui mô và quan trọng nhất của Triều đình. Đàn Nam Giao ngày nay được xây dựng vào năm 1906 về phía Nam Kinh Thành. Ở đây, nhà Nguyễn cho hợp tế cả trời, đất và tổ tiên. Thời gian đầu, Triều Nguyễn tổ chức tế Giao vào mùa xuân hằng năm. Đến năm Thành Thái thứ 2 (1890), Triều đình định lại ba năm tế Giao một lần vào các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu. Nghi lễ này được duy trì cho đến năm 1945, thời điểm cáo chung của phong kiến Việt Nam.
Nhã nhạc phục vụ lễ tế
Đàn Nam Giao là đàn tế lớn nhất và duy nhất được xây dựng một cách công phu dưới thời quân chủ. Tổng diện tích của đàn Nam Giao khoảng 10 ha, mặt bằng 265m x 390m. Do tế Giao là một một nét văn hoá đặc trưng của các nước châu Á nên mô thức kiến trúc của đàn Nam Giao cũng thể hiện rõ những triết lý Á Đông; cụ thể là đàn gồm có ba tầng, đại diện cho thuyết “tam tài” Thiên - Địa - Nhân.
Tam sanh (Trâ, dê, heo) phẩm vật chính của lễ tế
Tầng thứ nhất ở trên cùng, hình tròn nên được gọi là Viên Đàn, tượng trưng cho Trời (cha) và được sơn màu xanh. Từ năm 1846 trở đi, tòa nhà này được gọi là Hoàng Khung Vũ.
Tầng thứ hai có hình vuông nên được gọi là Phương Đàn, tượng trưng cho Đất (mẹ). Phương đàn được sơn màu vàng – màu của hành thổ,
Tầng thứ ba: Tầng thứ ba, ở dưới cùng cũng có dạng hình vuông, được sơn màu đỏ tượng trưng cho con dân.
Các quan bồi tế làm lễ triệt soạn
Ngoài ba tầng chính của Đàn, xung quanh khu vực này còn có các công trình phụ khác như Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố, Liệu sở và một số công trình được dựng tạm trong quá trình tế như: Hoàng Ốc, Thanh Ốc, Đại Thứ, nhà Khoảng Tiếp và nhà Quan Cư.
Đông đảo quần chúng nhân dân đến dâng hương tại lễ tế
Phần hóa (đốt vàng mã) sau khi kết thúc lễ tế
Việc khôi phúc lễ tế đàn Nam Giao chính là điểm nhấn văn hóa của Huế trong Festival. Đây cũng là dịp để công chúng trong nước và quốc tế hiểu được những giá trị văn hoá cung đình đặc sắc của Triều Nguyễn - triều đại quân chủ cuối cùng của Việt Nam.
Tin và ảnh: Trọng Bình