Đền Yên Thành và Vua bà Lý Chiêu Hoàng
Thời Lê, Yên Thành là một trong 8 làng có tên gọi bắt đầu bằng chữ Yên, 8 làng theo vị trí từ Đông sang Tây là: Yên Thuận, Yên Ninh, Yên Thành, Yên Viên, Yên Canh, Yên Diên, Yên Định, Yên Quang thuộc tổng Yên Thành, huyện Vĩnh Thuận. Tám làng đó ở vị trí: phía Nam là tường thành Hà Nội (nay là phố Phan Đình Phùng), phía Bắc là hồ Trúc Bạch và hồ Mã Cảnh (Cổ Ngựa), phía Đông là chỗ giáp ranh phố Hoè Nhai và phía Tây là ranh giới phường Thuỵ Chương. Thời Pháp thuộc, Yên Thành là phố Giáp Mục ĐâyĐiê (Ruemon Sêign Urday dier). Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, phố này được đổi tên là phố Bùi Viên Từ. Tháng 6 năm 1964 lại đổi tên là phố Phan Huy Ích và giữ nguyên tên gọi này cho đến nay.
Đền Yên Thành ở số nhà 28 phố Phan Huy Ích, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.(Ảnh: TL)
Qua nghiên cứu, khảo sát các tư liệu thành văn hiện còn lưu giữ tại di tích như: thần tích, sắc phong, văn bia, văn chuông, hoành phi, câu đối cho thấy đền Yên Thành là nơi phụng thờ Vua bà Lý Chiêu Hoàng, đời vua thứ chín và cũng là vị vua cuối cùng của nhà Lý. Cuốn thần tích chữ Hán còn lưu tại đền và sách “Đại việt sử ký toàn thư” kỷ nhà Lý có chép về sự tích của Vua bà Lý Chiêu Hoàng như sau: “…Mùa đông tháng 10 xuống chiếu lập Công chúa Chiêu Thánh làm Hoàng Thái Tử để truyền ngôi cho. Chiêu Thánh lên ngôi đổi Niên hiệu là Chiêu hương Hữu Đạo năm thứ nhất tên hiệu là Chiêu Hoàng… Chiêu Hoàng huý là Phật Kim sau đổi thành Thiên Hinh là con gái thứ của Lý Huệ Tôn, mẹ là Trần Thị. Vì Vua Huệ Tôn không có con trai nên lập con gái là Hoàng Thái Tử…”. Chiêu Hoàng vốn là Nữ Chúa của Triều Lý, tháng 10 năm 1224 lên ngôi Hoàng đế, lúc đó bà mới 8 tuổi. Tháng 12 năm Ất Dậu, do sự sắp đặt của Thái sư Trần Thủ Độ (vị Tiền Điện chỉ huy sứ coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài Thành), Vua bà Lý Chiêu Hoàng lấy chồng là Trần Cảnh mới 8 tuổi và nhường ngôi cho chồng. Xuống chiếu rằng: “Từ xưa nước Nam ta đã có Đế Vương trị vì thiên hạ, duy Triều Lý ta vâng chịu mệnh trời có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì Thượng Hoàng bệnh, không có người nối dõi, thế nước nghiêng nguy sai trẫm nhận minh chiếu cố gượng lên ngôi, từ xưa tới giờ chưa từng có việc ấy, khốn nỗi Trẫm là Nữ Chúa, tài đức đều thiếu người gúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong làm sao giữ nổi ngôi báu nặng nề?
(Ảnh: TL)
Trẫm dậy sớm, thức khuya sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử, hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất văn võ, nay nhường ngôi báu mong đồng lòng hết sức cùng giúp vận nước. Vậy ban bố thiên hạ để mọi người đều biết”. Sau đó, Chiêu Hoàng trở thành Hoàng hậu Chiêu Thánh của Triều Trần. Sống với Vua Trần nhiều năm mà con cái muộn mằn, nên có nỗi buồn mênh mông, bà dâng biểu tâu Vua xin ra khỏi Cung đi ngao du thiên hạ thăm phong cảnh và giảng kinh thuyết pháp ở nhiều nơi. Bà bỏ nhiều tiền để phát chẩn cứu đói cho dân. Năm 1258, bà được gả cho Lê Phụ Trần, một vị tướng tài danh, họ sống thuận hoà với nhau và sinh được một người con trai và một người con gái. Bà qua đời năm 61 tuổi. Hoàng hậu Chiêu Thánh là người nhân hậu, từ bi, quảng đại, bà đã giúp dân làng Yên Thành và dân làng Giao Tự - Kim Sơn, Gia Lâm làm ăn sinh sống, bỏ tiền sửa sang miếu thờ, phát chẩn cho dân nghèo. Khi sống thì hiền thục, lúc hoá thì linh ứng phù giúp nước lập công, bà được các triều vua phong tặng là Phật Kim Thượng hoàng Thái hậu linh ứng phụ quốc hiển hậu khang dân chi thần. Thời Lê Thái Tổ, bà được phong là Hoàng Nga uyển mỵ phu nhân linh ứng. Hiện nay, tại đền Yên Thành còn lưu một đôi câu đối có nội dung ca ngợi công đức của bà như sau:
Vạn cổ linh quang hồ Thượng miếu,
Thiên thu thắng tích nữ truy vương.
Nghĩa là:
Muôn thưở rạng rỡ linh thiêng toà miếu bên bờ hồ,
Nghìn năm di tích nổi danh là vị vua trong nữ giới.
Đền Yên Thành có khởi nguồn tạo dựng khá sớm trong lịch sử. Đền có kết cấu kiến trúc kiểu chữ đinh. Nhà tiền tế ba gian, 2 chái quay hướng Đông nhìn ra mặt phố Phan Huy Ích. Nhà xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, nội thất mặt bằng 6 hàng chân cột gỗ đỡ mái, các vì kèo tạo kiểu vì “thượng giá chiêng hạ kẻ bẩy hiên”. Nền nhà lát gạch Bát Tràng. Toà hậu cung 3 gian xây chạy dọc về phía sau, các vì kèo đỡ mái làm kiểu “gía chiêng hạ kẻ”. Cung cấm xây bệ thờ cao khoảng 1,5m trên đặt tượng Vua bà Lý Chiêu Hoàng. Tượng bà ở tư thế ngồi trên Long ngai đặt trong khám gỗ chạm rồng. Tại đền hiện nay nhân dân còn phụng thờ 8 vị vua Triều Lý (8 pho tượng của 8 vị vua Triều Lý được đặt trên ban thờ trong Cung của đền). Đền Yên Thành hiện còn lưu giữ nhiều di vật có giá trị văn hoá nghệ thuật thuộc thế kỷ XIX như: kiệu rước, tượng tròn, chuông đồng, bia đá, khánh đá, đặc biệt là bộ sắc phong (5 đạo sắc) phong thần cho Vua bà Lý Chiêu Hoàng. Đền Yên Thành đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá năm 2005.
(Ảnh: TL)
Triều đại nhà Lý trải dài 216 năm, qua 9 đời vua lấy Quốc hiệu Đại Việt, Kinh đô Thăng Long, là một trong những triều đại mở đầu cho việc xây dựng nền độc lập tự chủ của dân tộc ta sau 1000 năm Bắc thuộc.
Việc nghiên cứu tư liệu, kiến trúc nghệ thuật một di tích thờ phụng vị vua bà cuối Triều Lý hiện còn trong nội thành Hà Nội sẽ góp thêm nguồn tư liệu để nghiên cứu về các đời vua nhà Lý và lịch sử Thăng Long - Hà Nội. Đền Yên Thành là một minh chứng lịch sử về dấu tích của Triều đại nhà Lý trên mảnh đất Thăng Long 1000 tuổi. Di tích sẽ là một địa chỉ văn hoá hấp dẫn du khách tham quan tìm hiểu về Thăng Long 1000 năm văn hiến.
Thủy Tuấn