Tiếng chèo làng Trung Lập

Làng Trung Lập, xã Tri Trung, huyện Phú Xuyên-Hà Nội là ngôi làng thanh bình, nép mình bên những cánh đồng bát ngát. Bất kể lúc nào, khi công việc nhà nông đã đỡ bận rộn, người nông dân của làng lại tụ tập nhau lại, học hát và cất lên những giai điệu ca ngợi cuộc sống ân nghĩa thủy chung, tình yêu quê hương đất nước, đả kích nạn tham nhũng và những thói hư tật xấu trong xã hội. Họ hát say sưa, nhiệt tình, những người đã lên chức ông chức bà, nhưng không khí trong một canh hát của họ giống như thuở mười tám đôi mươi. Đoàn chèo làng Trung Lập có những ông già cả đời phục vụ cho đoàn, cho nghiệp hát giờ tóc đã bạc, răng đã long, mắt kém… mà tình yêu đối với nghệ thuật thì không giảm.

Trung Lập không phải là làng khoa bảng như một số ngôi làng xung quanh. Đây là ngôi làng thuần nông và có nghề vác đất, đắp đất cho nhiều nơi để kiếm sống. Cái đói cái nghèo có thể vắt kiệt sức lực, nhưng không sao kiềm chế được tình yêu của họ đối với hát Chèo. Khi chiến tranh xảy ra, người Trung Lập tích cực tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Nhiều người đã hy sinh anh dũng, ai còn sống sót trở về tiếp tục củng cố đoàn chèo làng. Nhiều lúc, chính họ ngày đó cũng không biết mình lấy đâu ra sự nhiệt tình đến như vậy, có đêm biểu diễn hai vở trường kịch liền.

Đoàn Chèo của làng được thành lập từ năm 1936. Ban đầu chỉ hát Cải lương, sau đó có thêm hát Tuồng, đến năm 1969 thì chuyển sang hát loại hình nghệ thuật chèo. Những người khơi dậy phong trào và thành lập đoàn là các cụ Lê Đình Nguyên, Lê Trung Đàn, Nguyễn Văn Bất... Con cháu các cụ sau đó đều là diễn viên và trở thành những thế hệ kế tiếp yêu và phát triển loại hình nghệ thuật này. Tuy nhiên về danh nghĩa thì Câu lạc bộ Hát Chèo của làng Trung Lập chính thức được thành lập từ năm 1999 như là nơi để mọi người thể hiện niềm say mê với Chèo, đồng thời cũng lưu giữ lại các vốn Chèo cổ có nguy cơ bị mai một.

Tuy “biên chế” của đoàn chỉ có hơn 30 người chính thức, nhưng Trung Lập đã thành làng hát Chèo. Ngay cả khi làm công việc đồng áng những người phụ nữ của làng vẫn thường ngân lên tiếng hát. Tiếng hát yêu đời tha thiết, thể hiện tình cảm, tình yêu giữa con người với con người, sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên. Nhiều cặp vợ chồng đều biết hát cho nên trong đời sống hàng ngày họ vẫn hát cho nhau nghe. Những em bé hồn nhiên, mạnh bạo với những làn điệu mà người lớn dạy cho. Nhiều người già đã mất giọng, nhưng không vì thế mà tình yêu với Chèo của họ bị giảm sút…

Ngày trước, đoàn từng đi biểu diễn ở nhiều nơi, sau mỗi đợt như vậy lại về làng liên hoan đạm bạc rồi ai về nhà nấy làm lụng, gắn với đồng ruộng, nuôi giọng hát mỗi tối, để đến dịp lại đi. Tuy cuộc sống của họ còn nghèo, nhưng đời sống tinh thần, phong trào văn nghệ của làng xã rất cao. Có thời gian đi tập, thiếu trống, họ phải dùng xoong, bát, hòm xiểng để tập. Có những thời gian diễn liên tục, các bà phải mang cả con đi lưu diễn, tập luyện. Hợp tác xã phải cử người đi trông nom con trẻ để các bà mẹ yên tâm tập luyện và biểu diễn. Nhiều đợt đi đến ba tháng trời mới trở về. Đoàn đi đến đâu, lỉnh kỉnh đồ đạc, người và xe, có cả vật nuôi như gà, vịt, chó. Sau mỗi đợt như vậy, đoàn đều có liên hoan “nhẹ” ở quê nhà, rất vui vẻ. Các ông, bà: Đỗ Thị Hoa, Lê Thị Phái, Lê Danh Ứng, Quang Liễn, Lê Tuấn Khiết… đã được Nhà nước tặng Kỷ niệm chương vì phong trào văn hóa nghệ thuật.

Từ làng Chèo Trung Lập, nhiều thế hệ đã đi đây đi đó, quảng bá cho chèo truyền thống. Con em ở làng hiện nay có nhiều người đang công tác ở các đoàn chèo Hà Nội, Phú Thọ, Đài Tiếng nói Việt Nam.... Các vở diễn thành công phải kể đến: Khói lửa Cầu Giẽ, Sức mới vào xuân, Sóng vỗ chân cầu, Đất quê hương... 

Ngày nay, ngay cả khi cấy cày, gặt hái giữa cánh đồng, những người phụ nữ làng vẫn thường ngân lên tiếng hát. Tiếng hát yêu đời tha thiết, thể hiện tình cảm, tình yêu giữa người với con người, sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên.

Đỗ Thu Hiền

Top