Phật viện Đồng Dương

Theo nội dung văn bia tìm thấy tại Đông Dương năm 875, Vua Indravarman II đã cho xây dựng một tu viện Phật giáo và đền thờ vị Bồ Tát bảo hộ cho Vương triều là Laskmindra Lokesvara Svabhyada.

Dưới triều đại Indravarman II trị vì, Kinh đô Vương quốc Chăm lại được dời từ vùng Panduranga trở ra vùng Amaravarti, với Kinh đô là Indrapuara.  Indrapura, theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Chăm Pa, chính là khu vực làng Đồng Dương hiện nay.

Năm 1902, H.Parmentier đã khai quật Di tích Đồng Dương.

Bia ký còn cho hay, vào năm 875, “do lòng tin vào Phật giáo, Nhà vua đã cho dựng lên một Phật viện (Vihara) và đền thờ Laksmindra Lokesvara Svabhyada”. Cũng trên tấm bia này, có nhắc đến “cõi cực lạc” (Svargapura) hay “đô thị giải phóng” (moksapura), “nơi trú ngụ” của Phật (Buddhapada). Nhà vua nhấn mạnh đến kẻ nào phạm tội ác phải chịu đầy xuống địa ngục. Bia Đồng Dương 875 còn cho hay, sau khi xây dựng xong, Nhà vua cũng đã cúng dường nhiều ruộng đất, tiền bạc, nô lệ… cho Lokesvara. Ngài dặn rằng: sau khi băng hà, được đổi danh hiệu là Paramabuddhaloka. Như vậy, Nhà vua Indravarman II đã đồng nhất mình với Phật dưới dạng Bồ Tát.

Phật viện Đồng Dương là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng không chỉ của Vương quốc Chăm Pa cổ xưa, mà nó còn có ý nghĩa vô cùng lớn tới cả khu vực Đông Nam Á đương thời. Đây được xem là thánh địa Phật giáo có sức lan tỏa và ảnh hưởng tới các khu vực xung quanh trong các quốc gia Đông Nam Á cổ xưa.

Kinh đô Indrapura nằm gọn trên cánh đồng Đồng Dương, rộng khoảng 2 km. Các nhà nghiên cứu giải thích rằng, Đồng Dương là cánh đồng thiêng. Từ “Dương” là biến âm của từ “Yan” (trời/sự linh thiêng). Quả thật, với địa thế thung lũng chữ nhật, có ba mặt Đông, Nam, Tây được đồi núi bao bọc, rồi có cả dòng Ly Ly, như là một mạch mối giao thương với bên ngoài, được bố trí kín đáo, đã tạo cho Kinh đô này vô cùng hiểm trở, linh thiêng.

Mặc dù vậy, sử sách đã từng ghi chép rằng, khi Lê Hoàn còn làm tướng của Triều Đinh, đem quân đi đánh Chiêm Thành năm 982, đã khiến cho cả tòa thành Indrapura bị phá tan, Vương triều Indrapura bị sụp đổ hoàn toàn, chấm dứt sứ mệnh của triều đại này trong lịch sử Chăm Pa. Đây là một hiện tượng đặc biệt trong Vương quốc Chăm Pa có lịch sử vô cùng lâu dài trong các quốc gia Đông Nam Á cổ đại.

Tuy nhiên, không phải do sự tàn phá của vị tướng quân Lê Hoàn ở thế kỷ thứ 10, khi mà các nhà nghiên cứu có ý kiến rằng, Kinh thành Indrapura với Phật viện Đồng Dương là hai nơi hoàn toàn khác nhau. Thế nhưng, Phật viện này cho đến nay dường như chỉ còn là phế tích, do chiến tranh và thiên nhiên hủy hoại. Ngày nay, Phật viện Đồng Dương chỉ còn như một ngôi sao băng, với rất nhiều sự ẩn chứa dưới lòng đất, khiến cho nhiều nhà nghiên cứu quan tâm qua hàng thế kỷ nay, mong muốn tìm hiểu thời vàng son của nó mà sử sách và văn bia đã để lại.

Phật viện Đồng Dương bây giờ.

Năm 1901, L. Finot và sau đó, năm 1902, H. Parmentier đã khai quật ở đây trên quy mô lớn và đã tìm thấy 229 hiện vật, trong đó nổi tiếng nhất là bức tượng Phật đứng bằng đồng, cao hơn 1 mét. Đây có thể coi là pho tượng hoàn hảo nhất, đặc sắc nhất trong số những tượng Phật giáo Đông Nam Á thời cổ.

H. Parmentier còn cung cấp cho chúng ta một mặt bằng kiến trúc chính của Phật viện này cùng nhiều tác phẩm điêu khắc đá quý giá. Đền thờ chính và các tháp phân bố trên một trục từ Tây sang Đông, dài khoảng 1300 mét, chung quanh có tường gạch bao bọc. Từ khu đền chính có một con đường dài khoảng 760 mét chạy về phía Đông đến thung lũng hình chữ nhật như cảnh quan còn thấy hiện tại. Ngoài chính điện, ở đây còn tìm thấy nền tăng xá, giảng đường và nhiều dấu vết kiến trúc khác, giả thiết như là nơi lưu trú của các sư tăng về đây tu học.

Sau hai cuộc khai quật này, các nhà khảo cổ học Việt Nam cũng tiến hành tìm hiểu nơi này vào năm 1996. Và, kết quả khai quật cùng với việc nghiên cứu địa tầng, cảnh quan, môi trường… đã cho rằng, Đồng Dương không thích hợp với việc xây dựng kinh đô của Vương triều Indravarman II. Nó chỉ là một Phật Viện, còn kinh đô được xây dựng ở nơi khác.

Ngày nay, Phật viện Đồng Dương chỉ còn lại một ngôi thành cổ với sự đứt đoạn và khuyết trống do thời gian và biến động của lịch sử. Tường thành hiện còn dài 155m, rộng khoảng 326m, chạy theo hướng Đông - Tây. Đây có thể là thành ngoại. Thành ngoại chứa 3 cụm kiến trúc đồng trục với tường thành và 3 hồ nhân tạo. Một ở góc Đông Nam và hai ở góc Đông Bắc. Tuy nhiên, 1 trong 3 hồ đó, ngày nay đã bị san lấp làm ruộng canh tác. Ngoài ra, ở góc Đông Nam của thành ngoại còn có vết tích của tòa nhà dài. Thành ngoại có hai cửa Đông và Tây, nhưng dấu tích rất mờ nhạt.

Trong thành ngoại là thành nội. Thành nội bao lấy nhà Thờ trung tâm, trong đó có tháp chính. Ở đây còn có một tháp đặc biệt, được dân gian gọi là tháp Giếng, nằm ở góc Tây Nam.

Dấu tích Phật viện Đồng Dương hiện chỉ có vậy. Tuy nhiên, những nghiên cứu khảo cổ học của H. Parmentier, đầu thế kỷ 20, đã chỉ ra rằng, ở đây có khu đền thờ chính, dài 326 m, rộng 155 m, xung quanh có tường gạch bao bọc. Từ khu đền chính có một con đường dài 760 m chạy về phía Đông. Khu đền này có 3 nhóm kiến trúc, chạy theo hướng Đông Tây: Nhóm phía Đông còn vết tích của tu viện Phật giáo, với di tồn còn lại là hai hàng 8 cột chạy song song, có bệ thờ lớn bằng sa thạch chạm khắc rất sinh động. Nhóm giữa còn lại là một ngôi nhà dài, chạy theo hướng Đông – Tây. Nhà có tường không dầy, cửa ra vào ở hai đầu hồi, hai vách tường có nhiều cửa sổ. Ở đây, tìm thấy 4 pho Hộ pháp (Dvarapala) khá lớn, cao khoảng 2 mét. Nhóm phía Tây là các đền thờ chính và tháp phụ xung quanh. Đền thờ chính là tháp truyền thống có mặt bằng hình vuông, cửa ra vào ở hướng Đông, phía trước có tiền sảnh, quanh tháp thờ có trang trí hình đầu voi và những mô hình tháp nhỏ. Trong đền/tháp chính có bệ thờ lớn bằng sa thạch, có nhiều trang trí công phu, tỉ mỉ, đặc biệt là cảnh sinh hoạt cung đình.

Mặc dù Phật viện Đồng Dương cho đến nay chỉ còn lại quá ít ỏi dấu tích kiến trúc. Tuy nhiên, những tàn tích của nó trong lòng đất, những ghi chép về nó trong lịch sử, những hiện vật nổi tiếng của nó đang trưng bày trong các bảo tàng, khiến nó xứng đáng trở thành di tích quốc gia đặc biệt và nó cũng xứng đáng được tôn vinh là đại diện cho một phong cách nghệ thuật Chăm Pa: Phong cách nghệ thuật Đồng Dương, có niên đại từ giữa thế kỷ 9 đến cuối thế kỷ 9.

Tôi hy vọng rằng, với những kết quả nghiên cứu mới, kết hợp với những tư liệu cũ, tương lai, Phật viện này sẽ được tái hiện tương đối đầy đủ hình hài để phát huy tới du khách trong và ngoài nước, với mong muốn Đồng Dương sẽ xứng tầm với sự vinh danh.

TS Phạm Quốc Quân

Top