Đền Ngọc Sơn
Đền hiện nay được xây dựng từ thế kỷ XIX, lúc đầu được gọi là chùa Ngọc Sơn, sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn vì trong đền chỉ thờ thần Văn Xương là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng có công phá quân Nguyên thế kỷ XIII.
Cầu Thê Húc - Đền Ngọc Sơn (Ảnh:TL)
Khởi nguyên, khi Vua Lý Thái Tổ dời Đô ra Thăng Long đặt tên ngôi đền đã có tại đây là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống Nguyên-Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ. Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), Chúa Trịnh Giang đã dựng Cung Thụy Khánh và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời nhà Lê, Cung Thụy Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Đầu thế kỷ XIX, một nhà từ thiện lớn là ông Tín Trai, người làng Nhị Khê, đã cho xây trên nền Cung Thụy Khánh xưa một ngôi chùa, gọi là chùa Ngọc Sơn. Vào năm 1834, một số danh nho của Hà Nội đã đứng ra lập Văn hội Thọ Xương và Hội Hướng thiện Ngọc Sơn. Trong số các danh sĩ đó, tiêu biểu hơn cả là Nguyễn Văn Lý, Vũ Tông Phan và Nguyễn Văn Siêu. Nguyễn Văn Lý hiệu là Đông Khê, sinh năm 1795, người phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1832), làm quan đến Hàn lâm viện trước tác. Vũ Tông Phan người thôn Tự Tháp, huyện Thọ Xương, sinh năm 1804, Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826), làm quan đến Tham hiệp, rồi Đốc học tỉnh Bắc Ninh, sau cáo quan về nhà dạy học. Nguyễn Văn Siêu (1796 - 1869), người phường Dũng Thọ, huyện Thọ Xương, đỗ Phó bảng khoa Mậu Tuất (1838), làm quan Án sát Hưng Yên, từng đi sứ nhà Thanh, hàm Hàn lâm viện thị độc, cáo quan về dạy học, dựng nhà giảng hình vuông, nên có hiệu là Phương Đình. Các ông cùng Hội của mình tiến hành nhiều hoạt động văn hóa xã hội rộng lớn như bài trừ đồi phong, bại tục, mở các trườngtư thục ở nội, ngoại thành Hà Nội, trước tác và tổ chức khắc in những công trình văn hóa giáo dục và biến khu vực Hồ Gươm - Ngọc Sơn thành một trung tâm văn hóa lớn. Năm 1843, được ông Tín Trai giao lại khu vực chùa Ngọc Sơn, Hội Hướng thiện đã đổi thành đền Ngọc Sơn thờ Tam Thánh: Văn Xương đế quân, phối thờ Lã Động Tân và Quan Đế (ba vị thánh của Đạo giáo), lại thờ cả Đức thánh Trần Hưng Đạo…
Lúc đầu được gọi là chùa Ngọc Sơn, sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn. (Ảnh:TL)
Danh sĩ Nguyễn Văn Siêu lại đứng ra vận động sửa lại khu đền Ngọc Sơn, xây kè đá quanh gò, đắp phụ thêm đất, xây thêm đình Trần Ba, cầu Thê Húc, Tháp Bút, có ba chữ đại tự Tả thanh thiên (viết lên trời xanh). Có thể nói, Phương Đình Nguyễn Văn Siêu đã biến ý tưởng chấn hưng văn hóa Thăng Long của các sĩ phu Hà Nội trong Văn hội Thọ Xương và Hội Hướng thiện Ngọc Sơn thành một quần thể kiến trúc giàu ý nghĩa về văn hóa.
Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới nước nhô lên. Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút. Phía nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng - ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có tám cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Khắp khu vực thắng tích Ngọc Sơn, một số kiến trúc biểu tượng cho học vấn và văn chương như Tháp Bút, Đài Nghiên, dần dần được coi là biểu tượng của ước vọng thi cử. Ngay hai bên cổng đền, hai bức tường được tạo thành một bảng rồng và một bảng hồ, biểu tượng hai bảng vàng ghi danh những người đỗ đạt trong khoa cử.
Đền Ngọc Sơn (Ảnh: TL)
Do quán xuyến ý tưởng đó, người đến đền Ngọc Sơn cầu lễ bao giờ cũng là những tín đồ tôn thờ cái thiện. Có thể nói, thắng tích Ngọc Sơn với sức cuốn hút đặc biệt đã tạo được một vẻ đẹp sâu sắc và rất đáng tự hào trong đời sống tinh thần của nhân dân ta gần hai thế kỷ qua.
Tuy là một ngôi đền kiến trúc mới, song đền Ngọc Sơn là một điển hình về không gian và tạo tác kiến trúc. Sự kết hợp giữa đền và hồ đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên.
Hữu Phong (Tổng hợp)