"Khối vàng ròng" trong ngôi cổ tự

Về thăm chùa Đại Bi, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội hôm nay, du khách chỉ còn cảm nhận được cảnh quan của một thời vang bóng ở ngôi chùa, qua cảnh sắc thiên nhiên còn lưu đọng, với vị thế phong thủy đắc địa, được cha ông chọn lựa, như một biểu tượng văn hóa truyền thống ở một vùng đất địa linh, nay được cộng đồng chăm chút bảo vệ, giữ gìn như một tài sản được lưu truyền qua bao thế hệ.

Kiến trúc của chùa Đại Bi giờ đây mang dáng dấp của một công trình Phật giáo thời Nguyễn, với bao lần trùng tu, tôn tạo, qua những trầm thăng của lịch sử, qua những can qua của chiến tranh giữ nước, qua sự tàn phá từ thiên tai, mưa nắng thất thường của khí hậu nhiệt đới gió mùa Việt Nam. Những đồ thờ tự và tượng thờ thấp thoáng đâu đó những nét thời gian của nghệ thuật mang phong cách thế kỷ XVII-XVIII, muộn hơn rất nhiều so với lịch sử khởi dựng của ngôi chùa, nhưng vật chứng vàng son, rực rỡ còn lại, chính là ở toà Thượng điện, một bàn thờ Phật đá, ghi rõ qua minh văn, được tạo tác vào năm Giáp Dần, niên hiệu Long Khánh 2 (1374). Đây chính là "khối vàng ròng", cho biết thời gian chùa Đại Bi được xây dựng, có thể trước đó một thời gian không xa, nhưng cuối thế kỷ XIV là hoàn toàn phù hợp, đem đến sự nổi tiếng, được ghi danh trong các văn liệu khảo cổ học nghệ thuật chùa Đại Bi đến ngày nay, ghim vào tâm thức người hành hương nhiều thế hệ, thiết nghĩ là từ chính cổ vật ấy.

Chùa Đại Bi

Bàn thờ có kích thước khiêm nhường, phù hợp và tương thích so với diện tích gian trong của toà Thượng điện hiện nay: Chiều cao 1,29m; chiều dài mặt bệ: 2,66m; chiều dài đế bệ: 2,61m; chiều rộng mặt bệ: 1,18m; chiều rộng đế bệ: 1,34m. Đây là những thông số được xem là tương đối lớn so với những bàn thờ Phật đã được phát hiện và nghiên cứu ở Việt Nam, chủ yếu là trong những ngôi chùa vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ.

Dáng hình bàn thờ được bố cục thành một khối hộp chữ nhật, có kết cấu ba phần: Nở trên, thót giữa và rộng ở chân đế. Tỷ lệ giữa ba phần cân đối, hài hòa, tạo nên một tác phẩm điêu khắc đá trang nghiêm, bề thế, như một tòa sen mãn khai vững chãi - nơi những vị Phật tọa thiền, trước những con nhang chiêm bái thành kính.

Kỹ thuật mài, cắt, tạo mộng trên bàn thờ không quá cầu kỳ, được lắp ghép bằng những phiến đá to, nhỏ, tùy vào yêu cầu vị trí trọng yếu hay thứ yếu của tổng thể. Mặt, thân, chân bàn thờ chỉ được mài nhám, không đánh bóng, như một ngôn ngữ của nghệ thuật triều đại, thô ráp và phóng khoáng, ngay cả trong cách xử lý không gian, để biểu đạt những tổ hợp hoa văn. Mặt ban thờ võng ở giữa, uốn hình cánh diều, với 4 góc cong nhẹ, tạo nên một sự bay bổng, uyển chuyển, phá vỡ sự khô cứng của khối hộp, được làm bằng chất liệu đá, vốn rất nặng nề so với những chất liệu khác. Điểm khác biệt của bàn thờ Phật đá chùa Đại Bi so với Hương Trai gần đó, chính là sự thể hiện hoa văn trên cả 4 diện, quanh bàn thờ, minh chứng cho nơi đặt cổ vật này trang nghiêm, không bị khuất lấp từ sự che chắn của những mảng tường.

Đài sen là phần trọng yếu, thiêng liêng, gây ấn tượng nhất với tín đồ sùng Phật, được nghệ nhân và những người đặt làm, tạo 3 lớp cánh sen, hướng lên phía trên, xếp so le nhau như một đóa sen nở rộ. Tuy nhiên, để lược giản theo phong cách nghệ thuật thời đại, lớp trên cùng chỉ hé lộ đầu cánh, nhưng 2 lớp dưới, những cánh sen mập mạp, chắc khỏe được tả thực, với những đường chạm khắc tài hoa, qua những đường cong nổi khối chắc nịch. Trong từng cánh hoa, thay bằng khối nổi là những đường viền, được khắc nét chi tiết, với những đường cong mềm mại, như nhắc lại một đóa sen kép tràn đầy chất phồn thực. Giữa những cánh sen là những bông hoa cách điệu nhiều cánh, giống hoa chanh (?).

Dưới những lớp cánh sen nổi là hàng cánh sen úp, được cách điệu hóa cao thành những đầu cánh hình vuông, trang trí bên trong có hai đường chỉ chạy men theo mép, rồi cuộn lại, kề sát nhau ở trên đỉnh với hai đường xoắn móc giản đơn. Cũng là sen, nhưng ở dải băng này, thay vì điêu khắc nổi, kỹ thuật khắc chìm, như một thông điệp trên - dưới, âm - dương của tín ngưỡng bản địa, vốn là tinh thần của Phật giáo Đại Việt được gửi gắm, nhưng đồng thời cũng là một phong cách của nghệ thuật điêu khắc đá đương thời, khối nổi xen nét chìm, không hề có sự mâu thuẫn và xung đột, đầy hòa hợp và nhịp điệu, khi băng cánh sen vuông lại một lần nữa nhắc lại ở nơi tiếp giáp giữa thân và đế bàn thờ. Thân bàn thờ được phân cách giữa đài sen phía trên và chân quỳ phía dưới, bằng hai cấp giật, tạo thành những đường gờ nhỏ, trên trang trí hoa dây và xoắn móc, giản đơn và phóng khoáng, như một nét đệm cho những tổ hợp trang trí chủ đạo ở giữa, trên 4 mặt ở thân.

Mặt trước của bàn Phật đá ở tòa Thượng điện

Mặt trước, tạo những ô hộc hình chữ nhật bên ngoài, thoáng qua, có vẻ thô cứng, nhưng bên trong là những hình ô van mềm mại, bao quanh biểu tượng hình rồng 3 móng trong mây. Rồng ở ô hộc chính giữa là motip "lưỡng long chầu nhật", dũng mãnh, oai phong và quyết liệt như đang tranh một viên ngọc quý. Đây là một đề tài hiếm gặp, đặc biệt trên điêu khắc đá, nhưng tinh thần và phong cách đã cho thấy ở đây sức sống của một triều đại đầy võ công hiển hách. Hai bên là hình ảnh độc long ba móng, với những đường nét điêu khắc toát lộ sức mạnh của đệ nhất tứ linh, sức mạnh của chí khí Đông A và tinh thần sát Thát, qua tư thế vận động mạnh mẽ, trái ngược nhau, nhưng đầu đều ngoảnh lại, hướng vào trung tâm. Mặt phía sau, cũng là 3 ô như thế, chạm nổi sư tử vờn cầu và hổ. Sư tử vờn cầu có bộ mặt ngộ nghĩnh, dáng nằm phủ phục hiền hòa, nhưng hổ, phía bên đối diện, có tư thế dũng mãnh, như chuẩn bị chồm lên, qua bộ mặt gầm ghè đầy áp chế. Đây cũng là hai đề tài hiếm thấy trong nghệ thuật điêu khắc đá thời Trần, và duy nhất có trên bàn thờ Phật đá, cả hai chầu vào những dòng minh văn, mang thông điệp niên đại chế tác. Hai mặt phải và trái là hai ô tròn, bên trong chạm nổi hình ảnh thú 4 chân, thường là hươu ngậm lá -  như trên bàn thờ Phật chùa Xuân Lũng (Phú Thọ), nhưng hình hài ở đây lại giống như một chú nai con (?) được diễn tả khá sinh động. Phía mặt đối diện, trong ô tròn là một cây được cách điệu hóa cao, rất có thể là hoa dâm bụt đã thấy trên bàn thờ Phật chùa Xuân Lũng (Phú Thọ) trước đây.

Mặt sau của bàn Phật đá ở tòa Thượng điện

Đặc biệt, 4 góc của thân bàn thờ chạm nổi chim thần Garuda đầy dũng mãnh, lực lưỡng, cân đối, có sức mạnh, chứa đựng một nội lực phi thường. Đứng về mặt tạo hình, chim được tạo tác trong tư thế ngồi, đầu người, nhưng có đôi mắt lồi tròn, mỏ mập, ngắn, mũi sư tử, cổ trang trí lá đề, ngực đeo vòng anh lạc, bụng phệ căng tròn, cơ bắp chân tay chắc nịch, hai tay giơ lên cân xứng, các ngón quắp chặt vào đài sen, hai chân chống sang hai bên, đạp xuống dưới như đang chịu sức nặng khủng khiếp, cổ tay và chân đeo vòng, các móng chân thần đang đỡ viên ngọc. Đôi cánh chim dang hai bên, với tư thế đang bay, được chạm nét. Nghệ thuật điêu khắc tượng tròn mang phong cách phù điêu, qua những khối hình và đường nét, tạo nên sự độc đáo của nghệ thuật Đại Việt Lý - Trần, nhưng ở tác phẩm này, với đề tài chim thần Garuda nâng đài sen, tính hiệu quả của sự kết hợp nêu trên, tạo hiệu ứng nhẹ nhàng, tự do và phóng khoáng, giảm đi áp chế của sức nặng, qua đôi cánh được diễn đạt thanh thoát như bay. Garuda là chim của văn hóa, tôn giáo Ấn Độ, ảnh hưởng tới các quốc gia cổ đại Đông Nam Á lục địa và hải đảo, nhưng giao thoa với tôn giáo và nghệ thuật Đại Việt, đã mang một sức sống riêng, trên tất cả các phương diện của tạo hình và kỹ thuật chế tác.

Chân của bàn thờ Phật chùa Đại Bi giật hai cấp, vững chãi và bề thế, lộng lẫy và uy nghi, qua một nghệ thuật tạo tác theo lối chân quỳ - dạ cá truyền thống, qua những nét điêu khắc tài hoa, uyển chuyển của người thợ thủ công, tạo nên những đường xoắn móc liên kết với nhau như những lá đề - biểu tượng của Phật giáo. Giản đơn, nhưng hiệu quả, đã được thể hiện trên bệ của bàn thờ Phật chùa Đại Bi, theo đó, đem đến một tổng thể hợp lý, hài hòa, chứa đựng những giá trị toàn diện về lịch sử, nghệ thuật, văn hóa, khoa học, tôn giáo, tín ngưỡng của một tác phẩm độc đáo, độc bản trong phức thể những bàn thờ Phật bằng đá, hiện biết ở nước ta.

Bàn thờ Phật nói chung, bàn thờ Phật bằng đá nói riêng, là loại hình cổ vật hiếm hoi trong kho tàng di sản văn hóa đất nước. Chúng càng hiếm hoi hơn, đối với một triều đại, được coi là thời kỳ phục hưng của văn hóa dân tộc, sau đêm trường thuộc Bắc và chống Bắc thuộc của người Việt. Bàn thờ Phật đá chùa Đại Bi, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội, với tôi, được xem như là một trong những đại diện tiêu biểu, rất đáng được tôn vinh với tính vẹn nguyên về hình hài và xuất xứ, với sự độc đáo của hoa văn trang trí, với những ngôn ngữ biểu đạt nhiều lớp, đa chiều, mang hồn cốt của văn hóa dân tộc, đậm đà bản sắc truyền thống, phản ánh một nền nghệ thuật Phật giáo độc đáo, trong sự hòa đồng với đời sống dân gian, và với những tôn giáo khác đang được thực hành trong cộng đồng. Bàn thờ Phật đá chùa Đại Bi cũng cung cấp cho chúng ta một trong số ít những tiêu bản hiện biết có niên đại tuyệt đối, làm tham chiếu cho diễn trình chuyển biến về loại hình và nghệ thuật trang trí qua các thời, chí ít từ Trần đến Lê - Mạc. Cho đến nay, ngoài Xuân Lũng (Phú Thọ) và Đậu An (Hưng Yên), một bằng đá và một bằng đất nung, có niên đại Trần và niên đại Mạc, đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận bảo vật quốc gia mấy năm trước, thiết nghĩ bàn thờ Phật đá chùa Đại Bi xứng đáng được góp mặt trong số ít ỏi ấy, âu cũng là ý nguyện của cộng đồng, trong đó có chúng ta./.

Những đồ thờ tự và tượng thờ thấp thoáng đâu đó những nét thời gian của nghệ thuật mang phong cách thế kỷ XVII-XVIII, muộn hơn rất nhiều so với lịch sử khởi dựng của ngôi chùa, nhưng vật chứng vàng son, rực rỡ còn lại, chính là ở toà Thượng điện, một bàn thờ Phật đá, ghi rõ qua minh văn, được tạo tác vào năm Giáp Dần, niên hiệu Long Khánh 2 (1374). Đây chính là "khối vàng ròng", cho biết thời gian chùa Đại Bi được xây dựng, có thể trước đó một thời gian không xa, nhưng cuối thế kỷ XIV là hoàn toàn phù hợp, đem đến sự nổi tiếng, được ghi danh trong các văn liệu khảo cổ học nghệ thuật chùa Đại Bi đến ngày nay, ghim vào tâm thức người hành hương nhiều thế hệ, thiết nghĩ là từ chính cổ vật ấy.

Bài: TS Phạm Quốc Quân

Ảnh: Trần Trung Hiếu 

Top