Giá trị trường tồn của Bản Tuyên ngôn độc lập
1. Tư tưởng lớn, xuyên suốt toàn bản Tuyên ngôn độc lập là khẳng định quyền dân tộc của dân tộc Việt Nam, khẳng định nền tảng pháp lý cả trên nguyên tắc, cả trên thực tế và cả quyết tâm sắt đá của nhân dân Việt Nam về quyền sống trong độc lập, tự do và hạnh phúc.
Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn câu nói bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người lại trích dẫn câu trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Sử dụng những văn kiện của những nước lớn đã khẳng định “những lẽ phải không ai chối cãi được” mà chính họ lại đang đi ngược lại những nguyên tắc cơ bản ấy. Điều đó thể hiện một hành động thật sự cách mạng, táo bạo và tài tình của tác giả Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới. Hơn nữa, từ những quyền cơ bản của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng lên thành quyền của tất cả các dân tộc trên thế giới. Người khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Điều khẳng định đó không chỉ dành riêng cho dân tộc Việt Nam, mà cũng là cho tất cả các dân tộc khác. Đây thật sự là một sự kiện quan trọng trong quá trình đấu tranh của các dân tộc chống ách đô hộ của các nước đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ II và là một tư tưởng mẫu mực của thời đại đấu tranh giải phóng dân tộc.
Để tìm ra được lẽ phải về mặt pháp lý, tác giả của Tuyên ngôn độc lập tiếp tục nêu lên những thực tế mà cả thế giới phải thừa nhận. Đó là sự vùng dậy của nhân dân Việt Nam để tự giải phóng. Tuyên ngôn kết thúc bằng những lời tuyên bố: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập”. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Lời tuyên bố đó thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân Việt Nam hiểu được chân lý của lịch sử, đi đúng bước đi của thời đại và quyết tâm giữ vững cơ đồ của non sông đất nước vừa giành thắng lợi trong cuộc cách mạng vĩ đại. Ý chí độc lập dân tộc xuyên suốt làm cho bản Tuyên ngôn độc lập trở thành bản anh hùng ca của dân tộc ta, khép lại một quãng đời nô lệ và mở ra một chân trời mới của lịch sử dân tộc đã làm chủ vận mệnh của mình. Đây là một văn kiện lịch sử có giá trị muôn đời thể hiện khí phách và tinh hoa của dân tộc trong đấu tranh và xây dựng đất nước. Ý thức tôn trọng và quan niệm thống nhất giữa quyền sống chân chính của một cá nhân, quyền độc lập của các dân tộc và quyền bình đẳng tự do của mỗi con người đã xác định giá trị nhân bản của Tuyên ngôn độc lập. Đó là cơ sở nhân đạo và cũng là cơ sở pháp lý vững chắc của văn kiện lịch sử này. Do đó, ánh sáng và tinh thần của Tuyên ngôn độc lập mãi mãi là tư tưởng lớn soi đường cho dân tộc ta hiện tại và tương lai.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 2-9-1945
2. Tuyên ngôn độc lập thấm đượm tinh thần yêu nước- một truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam.
Ngày 30-8-1945, sau khi đọc bản thảo Tuyên ngôn độc lập cho mọi người góp ý kiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh không giấu nổi sự sung sướng, Người nói: Trong đời Người đã viết nhiều, nhưng đến bây giờ mới viết được một bản Tuyên ngôn như vậy. Niềm sung sướng ấy bắt nguồn từ tình cảm yêu nước được hun đúc qua hàng nghìn năm, nay được nở hoa kết trái.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luôn là một nét văn hoá làm nên cốt cách chủ nghĩa anh hùng của người Việt. Từ thời đại Văn Lang với các Vua Hùng, trải qua thời đại Đại Việt với tên tuổi các anh hùng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, chủ nghĩa yêu nước luôn được bồi đắp. Nay đến thời đại Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước ấy được phát triển rực rỡ với nội dung yêu nước gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những áng văn thấm đượm chủ nghĩa yêu nước trong Tuyên ngôn độc lập làm cho chúng ta thấy rõ niềm tự hào của người viết đã không hổ thẹn mà xứng danh với Tổ tiên, xứng đáng với sự hy sinh xương máu của những nhà yêu nước từ hơn tám mươi năm nay.
Trong Tuyên ngôn độc lập tác giả đã không sử dụng cụm từ “yêu nước” hay “chủ nghĩa yêu nước” nhưng chúng ta cảm nhận thấy rõ chính nhờ tình cảm yêu nước thiêng liêng ấy mà nhân dân ta đã làm nên một cuộc đổi đời cho dân tộc. Một rừng người, chính họ ngày hôm qua đã đứng lên chiến đấu lập nên chính quyền của mình, hôm nay họ kéo về quảng trường Ba Đình để được nghe bản Tuyên ngôn độc lập chiều ngày 2-9-1945. Họ đã và đang “kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn” quyết tâm giữ vững nền độc lập vừa giành được.
Chủ nghĩa yêu nước trong Tuyên ngôn độc lập vừa thấm đượm chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, lại được soi sáng bằng những tinh hoa của thời đại mới, trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Điều nổi bật của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh đó là yêu nước luôn luôn thống nhất và gắn liền với tình yêu nhân dân. Người nói: Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Tư tưởng yêu nước mới đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm khơi dậy ngay từ những ngày đầu dựng nước, để mọi tầng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi, ở mọi lĩnh vực công tác đều thực hành thi đua yêu nước. Người chỉ rõ giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân, đặc biệt là cho thế hệ trẻ phải là việc trước tiên trong sự nghiệp giáo dục. Người nói: trong giáo dục, điều cốt nhất là phải dạy cho học sinh biết yêu nước thương nòi, phải dạy cho họ có chí tự lập tự cường quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ. Cũng như sau này trong 5 điều Bác Hồ dạy thiếu nhi, Người cũng nêu điều đầu tiên là “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào”. Người mong muốn thế hệ tương lai của đất nước trước hết phải trở thành người yêu nước, trung thành với Tổ quốc, đồng bào mình.
Bản Tuyên ngôn độc lập được lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III
3. Tuyên ngôn độc lập - tuyên ngôn về ý chí tự lập tự cường dân tộc của dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên bố trước thế giới rằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam đứng lên tự giải phóng để làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc cách mạng đó đã được Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh chuẩn bị từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX. Từ những trải nghiệm của bản thân mình, Nguyễn Ái Quốc đã sớm rút ra được những luận điểm như là chân lý để mỗi dân tộc đều khẳng định được quyền sống của mình. Người chỉ rõ mọi quốc gia, dân tộc cũng như đối với mỗi người muốn luôn luôn đứng vững và đi lên trong mọi khó khăn thì phải có ý chí tự lập tự cường. Từ những năm 20 của thế kỷ trước Người đã khẳng định: Sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa chỉ có thể là sự nghiệp của chính các dân tộc thuộc địa. Người cũng kêu gọi nhân dân Việt Nam: Chúng ta phải đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta; có tự lập mới có độc lập, có tự cường mới có tự do.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn nhận thức rõ: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, dân tộc yếu thì không giữ được độc lập, không kiến thiết phát triển được đất nước. Người cũng sớm chỉ ra cho mỗi người Việt Nam đều phải có trách nhiệm giữ nền độc lập vừa giành được. Người nói: Chúng ta đã hy sinh bao nhiêu xương máu nay mới giành được độc lập vì vậy phải cố mà giữ lấy và độc lập là của quý giá vô cùng. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 3-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu những nhiệm vụ cấp bách lúc này, đó là phải làm cho dân tộc ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập; đó là nâng cao dân trí để mọi người Việt Nam thấy rõ muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình phải có kiến thức mới có thể tham gia xây dựng nước nhà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: Ý chí tự lực tự cường dân tộc phải được biểu hiện trong hành động của tất cả mọi người Việt Nam, bất kỳ ở địa vị nào, làm công tác gì đều góp phần làm cho đất nước giàu mạnh. Trong việc này Người đặc biệt nhấn mạnh giáo dục thế hệ trẻ và chỉ rõ giáo dục thế hệ trẻ trước hết và cốt nhất là giáo dục tinh thần yêu nước và ý chí tự cường dân tộc. Người viết trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: Sau 80 năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.
Là một văn kiện lịch sử, Tuyên ngôn độc lập không chỉ là bản anh hùng ca khép lại quãng đời nô lệ, mở ra một chân trời mới của lịch sử dân tộc Việt Nam; mà áng văn chính luận này mãi mãi có giá trị tinh thần cao quý muôn đời soi sáng con đường đi của dân tộc ta.
TS Nguyễn Thị Tình
Nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh; Ủy viên BCH Hội Di sản Văn hóa Việt Nam