Những đặc trưng của làng Việt trong tâm thức người Việt
1. Lũy tre làng. Lũy tre làng là danh giới hành chính của một xóm, một làng hoặc một thôn nằm trong địa bàn một xã. Ở trong lũy tre làng ấy có khoảng vài trăm hộ hoặc nhiều hơn thì một, hai nghìn hộ dân sinh sống. Ngoài lũy tre làng là cánh đồng lúa, ngô, khoai, sắn … của người dân thôn quê.
Những hình ảnh quen thuộc ở làng quê vào mùa vụ, chúng ta thường thấy các bác nông dân ra đồng, trên vai vác cái cày, đi trước là con trâu. Những buổi trưa hè, trời nắng nóng, trên đường đi làm về, tới đầu làng, bác nông dân buộc trâu vào bụi tre cho nó trú nắng, còn các bác xúm lại, ngồi bệt trên tàu lá chuối vừa cắt trên cây, rồi làm điếu thuốc lào, xả khói vấn vương. Sau mỗi buổi làm việc đồng áng, được ngồi nghỉ ngơi hóng mát dưới lũy tre làng trưa hè thì thật thật là thú vị làm sao. Lũy tre làng là nơi gắn bó với nhiều thế hệ tổ tiên của gia đình tôi, của người dân quê tôi. Ở nơi ấy gắn bó một phần ký ức tuổi thơ tôi.
Lũy tre làng - hình ảnh thân thuộc ở làng quê Bắc Bộ Việt Nam.
Thế hệ cụ tôi, ông nội tôi đã từng sống trong lũy tre làng và vì đất nước liên tục xảy ra chiến tranh xâm lược, nên thế hệ cha, anh tôi cũng phải xa làng lên đường đi đánh Pháp, đánh Mỹ. Lũy tre làng ở nhiều nơi đã trở thành pháo đài chống giặc, ghi nhiều chiến công. Đất nước hòa bình, cha tôi chuyển sang công tác ở tỉnh, sau này về huyện… Đến thế hệ anh em tôi lớn lên, được cha mẹ cho ăn học, rồi đi làm, mỗi đứa lập nghiệp mỗi nơi, chẳng đứa nào chịu về làng làm ăn, sinh sống. Dẫu vậy, bao đời nay, lũy tre làng vẫn tồn tại như một biểu tượng của văn hóa làng, một thứ không thể thiếu trong mỗi làng quê nước Việt.
2. Cổng làng. Làng Việt trước đây thường có một lối đi vào chính, gọi là cổng làng. Cổng làng quê Việt thường có 2 cổng: Cổng trước hay cổng tiền và một lối nhỏ hơn gọi là cổng sau. Lối đi từ cổng trước đến cổng sau là con đường chính trong làng. Cổng là ranh giới ước lệ, là biểu hiện quyền uy của làng xóm. Có làng còn dựng cả bia với các chữ Nho ở bên cổng để nhắc nhở ai qua cổng, ngay cả những người quyền quý cũng phải xuống ngựa, xuống xe để tỏ ý tôn trọng lệ làng.
Thời loạn lạc, cổng làng được đóng kín, nhất là ban đêm, lại có thêm tuần phu canh gác rất nghiêm cẩn. Trong khi cổng trước mang nhiệm vụ nghênh tiếp, cổng sau hàm ý tiễn đưa. Ví dụ như người chết thì sẽ được đưa ra bãi tha ma bằng cổng sau (chứ không đưa qua cổng trước). Người bị làng phạt vạ vì tội gì đó, thì cũng phải đi cổng sau.
Cổng làng Diềm (Viêm Xá, Bắc Ninh) với một lối đi chính và hai cổng mã hai bên. Phần mặt trước có đắp nổi 4 chữ “Vãng dư hữu lợi” nghĩa là: khách đến chơi làng Diềm chỉ có lợi. Ảnh: disanlangviet.
Thường thì cổng làng có thể mang dạng cổng Tam quan (còn gọi là Tam môn), tức ba lối đi: một lối chính và hai lối ngách. Lối ngách dùng đi lại hàng ngày; chỉ khi có nghi lễ, việc quan trọng thì mới mở lối của giữa. Cổng trước xây thường xây to lớn hơn, trên trán cửa thì ghi tên làng hoặc một câu liên quan đến địa phương, làm như bức hoành phi. Cũng như những công trình xây cất truyền thống khác, phép chọn phương hướng để xây cổng làng bị chi phối bởi học thuật phong thủy. Lý tưởng nhất là cổng trước làng nhìn ra hướng Đông, còn cổng sau nhìn ra hướng Tây. Vật liệu xây cổng làng thường là gạch hoặc đá, đắp thêm vữa, bên trên làm mái. Có nơi cầu kỳ thì làm hai tầng mái (chồng diêm) hoặc xây gác giống như vọng lâu với mái cong. Nóc mái thì đắp rồng, phượng, hay cá hóa long, quả bầu v.v. .. Làng nghèo thì cổng làm khá đơn giản, chỉ bằng gạch, gỗ tre.
Cổng làng là sản phẩm kiến trúc cổ của người Việt Nam. Người sống sau cái cổng làng, người chết thì chôn bên ngoài cái cổng làng. Vì thế, cổng làng có vị trí rất quan trọng trong đời sống thực và đời sống tâm linh của con người Việt Nam.
3. Giếng làng. Giếng làng thường nằm trong quần thể không gian kiến trúc đình chùa, dù làng đó giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, dù xây bằng gạch, đất hay đá ong, thì giếng làng vẫn là nơi gắn bó lâu bền với đời sống người dân làng quê Việt và mãi là hình ảnh thân thương, gần gũi trong tâm thức mọi người khi nhớ về làng quê. Chẳng phải ngẫu nhiên mà hình ảnh giếng làng cứ đi về trong nỗi nhớ của những người xa quê. Cái giếng có mặt trong đời sống của người Việt từ xa xưa, có lẽ bắt đầu từ câu chuyện cổ tích khi cô Tấm nuôi con cá bống. Rồi giếng thành huyền thoại khi Trọng Thủy gieo mình tự vẫn, giải oan cho tình yêu của nàng Mỵ Châu với “trái tim lầm lẫn để trên đầu”.. .
Giếng làng Nghi Vịnh, huyện Nga Sơn (Thanh Hóa). Ảnh: Xuân Chính/Zing.
Giếng làng thường có hai loại chính: giếng đất và giếng đá. Cái giếng giữ phần âm của làng. Bản thân cấu trúc hình tròn, chiều sâu đi vào lòng đất, vị tanh hơi ngọt và độ lạnh của nước giếng đã nói lên điều đó. Hơn nữa, giếng đôi khi còn là cái gì đó linh thiêng và thần bí. Trên Đền Hùng giờ vẫn còn giếng Ngọc. Các bà các cô bảo nhau: nếu ngọc trai vớt ở sông đem đến đây rửa sẽ rất sáng và đẹp. Chính vì vậy, trong tâm thức của người Việt, giếng làng không chỉ là con mắt của đất, nó là trái tim của làng, là cái hồn của xóm mà nó còn là nơi tụ hội nguồn sống, là mạch ngầm, là nơi tích phúc cho dân làng ăn nên làm ra. Trong sinh hoạt đời thường, người ta lấy nước giếng về dùng trong sinh hoạt, giếng còn làm gương soi cho các cô gái làm duyên mỗi khi ra đó gánh nước về dùng.
Cái giếng làng còn chứng kiến bao nhiêu cuộc tình của nhiều thế hệ. Dân gian nhiều lần mượn nó mà ngỏ lòng. Lúc thì nhỏ nhẹ: “Năng mưa thi giếng năng đầy/ Anh hay đi lại mẹ thầy năng thương”; hoặc có lúc lúc lại giận hờn, trách cứ: “Em tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài / Đâu ngờ giếng cạn em tiếc hoài sợi dây”v.v ...
Ngày nay cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ, cùng với điện khí hóa nông thôn, đặc biệt sự phát triển từ làng lên phố ở khá nhiều làng quê, đã làm cho những chiếc giếng làng hầu hết đã trở thàn di tích/phế tích. Tuy vậy, giếng làng - người bạn tri ân bao đời nay ở vùng thôn quê - vẫn mãi là những hình ảnh thân thương, gần gũi và rất khó phai mờ trong tâm thức mọi người khi nhớ về làng quê Việt Nam.
4. Thành hoàng làng. Thành Hoàng làng (Thành hoàng) là danh từ chung để chỉ vị thần được thờ trong một làng xã ở Việt Nam. Giống như Táo công và Thổ công, Thành Hoàng cai quản và quyết định họa phúc của một làng và thường được thờ ở đình làng.
Tục thờ Thành Hoàng vốn có nguồn gốc từ thời Trung Hoa cổ, sau khi du nhập vào Việt Nam đã nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông dân Việt, trở nên hết sức đa dạng và thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.
Thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã không chỉ về mặt tinh thần mà còn về mặt đời sống sinh hoạt vật chất. Họ là vị thần tối linh, có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Cho nên sự thờ phụng Thành hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng. Thường mỗi làng chỉ thờ một Thành hoàng, song cũng có khi một làng thờ 2, hoặc 3 vị. Thành hoàng có thể là nam thần hay nữ thần, tuỳ sự tích ở mỗi vùng.
Thời xưa, các Thành hoàng được vua sắc phong (trừ những tà thần, yêu thần...) thành ba bậc: Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần, Hạ đẳng thần (tuỳ theo sự tích, công trạng của các vị thần với nước với dân, làng xã), biểu hiện của lịch sử, đạo đức, phong tục, pháp luật cũng như hy vọng sống của cả làng. Thành hoàng có sức toả sáng vô hình như một quyền uy siêu việt, khiến cho làng quê trở thành hệ thống, một thiết chế có kết cấu tinh thần chặt chẽ.
Chính sự thờ phụng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, nếp sống cộng cảm hoà đồng, đất lề quê thói được bảo tồn. Dường như sự ngưỡng mộ Thành hoàng của người dân không kém gì sự ngưỡng mộ đối với tổ tiên của họ.
Hàng năm, ngày giỗ Thành hoàng là ngày hội đông vui nhất của làng, của phố. Trong những ngày hội, ngoài việc làm cỗ, ăn uống còn rất nhiều nghi lễ như diễn lại sự tích về Thành hoàng, tế lễ, rước kiệu hay các trò vui: đấu cờ, chọi gà, thổi cơm thi, bơi chải, đánh đu, đánh cờ người, hát chèo, diễn tuồng... Ngày lại ngày, năm qua năm, các thế hệ người dân quê cứ tiếp tục sinh sôi nhưng Thành hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không thể phủ nhận được của mỗi làng quê qua những cơn dâu bể.
5. Hội làng. Hàng năm, có lẽ hiếm có làng quê Việt Nam nào lại không mở hội làng. Hội làng ở làng quê nước ta thường được tổ chức vào mùa xuân, khi đất trời giao hòa, thiên nhiên tươi tốt, lòng người hân hoan. Có thể nói, trên cái nền hết sức phong phú và đa dạng của hội hè, đình đám ở nông thôn Việt Nam, hội làng được coi là thời điểm cuốn hút nhất, tưng bừng nhất với những nghi thức tôn nghiêm và thuần Việt: tế lễ, rước, trò vui và hát xướng... Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Hội làng đã có từ xa xưa và nhiều hội làng nổi tiếng tiêu biểu cho tín ngưỡng phồn thực được bảo lưu từ thời thượng cổ. Ngay cả trên trống đồng cổ, cũng thấy có những nét hoa văn, dấu ấn của hội làng.
Xem xét từ nhiều yếu tố lịch sử và văn hóa, hội làng mang tính cộng đồng sâu sắc, đó là đỉnh cao của sự hòa hợp, đoàn kết vì một ước nguyện chung cho sự phồn vinh của làng xã. Hội làng thường được tổ chức thật vui, thật đầm ấm vì tình làng, nghĩa xóm. Điều đó thể hiện qua những khâu chuẩn bị cho đến khi nuối tiếc lúc tan hội. Có xem hội làng, ta mới cảm nhận hết ý nghĩa và lòng tự hào dân tộc với một truyền thống vàng son.
Cũng như lễ hội truyền thống, hội làng gồm 2 phần: lễ và hội và thường diễn ra ở các ngôi đình làng. Nhưng ở hội làng, phần hội bao giờ cũng nổi trội hơn. Lễ thể hiện lòng ngưỡng mộ, sùng bái anh hùng, tôn vinh danh nhân, người có công với dân, tổ nghề, có thể là những thần, thánh, phật, mẫu, hay những nhân vật siêu phàm, đại diện cho tôn giáo, người bảo trợ tinh thần, đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho cộng đồng. Phần lễ thường gồm các hoạt động rước và tế... Hội là dịp thể hiện sinh hoạt văn hóa cộng đồng từ múa, hát giao duyên, các trò diễn xướng, sân khấu cổ truyền, các cuộc thi tài mang tính thượng võ...
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực là khơi dậy lòng yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức hướng về cội nguồn, thì hội làng ở một số nơi còn tồn tại những tập quán lạc hậu, biểu hiện mê tín, tệ nạn xã hội. Ở một số địa phương, hội làng được tổ chức không phải để tôn vinh giá trị truyền thống, mà chủ yếu để kinh doanh kiếm lời. Họ rào làng, bịt lối, bán vé vào cửa, vào lễ, gây phiền hà cho người đến lễ hội, trái ngược hẳn với tục mở rộng vòng tay đãi bạn mười phương về chung vui hội làng thời xa xưa. Các tệ nạn mê tín dị đoan như: bói toán, đội bát nhang, uống nước thánh, đốt vàng mã, cúng tế, rước xách linh đình kéo dài ngày càng có chiều hướng gia tăng. Hơn nữa, trong hội làng đã bắt đầu xuất hiện các tệ nạn xã hội như: đánh bạc, cá cược, hút thuốc phiện, ma túy.
Chúng ta mong rằng hội làng ở các làng Việt vẫn giữ nguyên sức cuốn hút, hấp dẫn lâu đời vốn có của nó, giảm trừ các hủ tục, tệ nạn xã hội. Bởi hội làng là tinh hoa văn hóa Việt Nam, là chìa khóa vĩnh cửu - một sự đảm bảo chắc chắn góp phần xây dựng “nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” .
Ths Nguyễn Hữu Giới