Người Lô Lô ở Việt Nam
Đó là tên gọi chính thức của Nhà nước đối với dân tộc thiểu số này, khi trong lịch sử, họ mang những tộc danh khác nhau: Mùn Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc, Màn. Bao phủ và rộng hơn cả những tên gọi này là Di tộc - những tộc người sống ở phía Nam Tây Nguyên. Địa bàn cư trú của dân tộc Lô Lô ở Việt Nam chủ yếu ở các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang), Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng), hay Mường Khương (tỉnh Lào Cai) và Lai Châu.
Thiếu nữ dân tộc Lô Lô.
Tổng điều tra dân số năm 1999, người Lô Lô ở Việt Nam có 3307 người, mười năm sau đó, 2009, dân số Lô Lô lên 4541 người và địa bàn phân bố mở rộng tới 63 tỉnh, thành phố, do nhu cầu làm ăn, sinh sống, làm việc, học tập với những nhóm hoặc cá nhân nhỏ lẻ, không phải là cộng đồng cư trú hoặc địa bàn cư trú truyền thống.
Người Lô Lô chủ yếu trồng ngô, làm lúa nương. Họ mang nhiều dòng họ khác nhau. Người trong mỗi dòng họ thường cộng cư trong không gian truyền thống là làng. Cộng đồng dân tộc này chia thành hai nhóm, không mấy riêng biệt: Lô Lô Hoa hay Di trắng là bình dân. Lô Lô đen hay Di đen: là quý tộc.
Người Lô Lô nói tiếng Lô Lô hay tiếng Di, là một ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Tạng – Miến trong ngữ hệ Hán – Tạng. Dân tộc này cũng có chữ viết riêng theo vần chữ của họ trước đây là chữ tượng hình, nhưng hiện nay không còn dùng. Khoảng thế kỷ 14, người Lô Lô đã có chữ viết tượng hình với 140 bộ thủ. Người ta dùng phương pháp ghép bộ thủ để diễn đạt nghĩa. Chữ được khắc ghi trên những tấm gỗ mỏng, da thú, giấy dầy, thô. Hiện nay, còn một số gia đình có loại văn bản này, nhưng ít ai có thể đọc.
Lễ hội cầu mưa của người Lô Lô.
Hôn nhân của người Lô Lô là một vợ, một chồng, theo nguyên tắc “thuyền theo lái, gái theo chồng”. Phong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính gả bán qua việc thách cưới cao. Con trai cô có thể lấy con gái cậu, nhưng không ngược lại.
Người Lô Lô có một kho tàng văn hóa dân gian đa dạng và đặc sắc, được thể hiện qua các điệu nhảy múa, hát ca, truyện cổ… Nghệ thuật tạo hình của họ đặc sắc qua các hoa văn trang trí trên váy, áo, khăn với màu sắc rực rỡ, rất ấn tượng trong số các trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Lịch của người Lô Lô chỉ có 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với tên một con vật.
Đặc biệt hơn cả của cộng đồng Lô Lô là họ có di sản văn hóa trống đồng. Trống được bảo quản, giữ gìn bằng cách chôn xuống đất và đến khi sử dụng thì đào lên. Tộc trưởng của mỗi họ là người được giữ trống. Trống được dùng trong các đám tang hoặc đánh lên giữ nhịp cho các điệu múa. Lô Lô là một số ít các dân tộc ở Việt Nam hiện còn sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Trống của người Lô Lô gắn liền với huyền thoại nạn hồng thủy. Đó là một nạn lụt lớn, nước dâng cao tới tận trời. Có hai chị em nhờ trời cứu, để chị vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát chết nhờ trống nổi lên mặt nước. Hết lụt, họ ở trên núi, sống với nhau thành vợ, thành chồng. Truyền thuyết này nảy sinh cặp phạm trù Đực - Cái, bắt nguồn từ quan niệm âm - dương, sự sinh sôi nảy nở được lưu tồn trong các bộ đôi trống đồng. Sự hòa tấu giữa hai trống đực - cái chính là biểu hiện của âm - dương giao hòa.
Trống còn được treo trên giá, đặt ở phía chân người chết, mặt của hai trống quay lại với nhau. Người đánh trống đứng giữa, cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống. Chỉ có người đàn ông chưa vợ, hoặc có vợ không trong thời kì thai nghén mới được đánh trống.
Trống đồng không chỉ là tài sản quý, một nhạc cụ độc đáo mà còn là một khí cụ mang tính tâm linh. Có tiếng trống đồng thì hồn người chết mới tìm được đường về nơi sinh tụ đầu tiên của tổ tiên.
Ngoài tín ngưỡng liên quan tới trống đồng, người Lô Lô còn có tín ngưỡng đa vật linh. Sau này, một số nhóm Lô Lô cũng du nhập Đạo giáo cùng với Phật giáo vào đời sống tâm linh của cộng đồng.
Tang ma của người Lô Lô có nhiều phong tục, lễ thức độc đáo như hóa trang, nhảy múa, đánh lộn… Dấu tích của tục săn đầu lâu còn thể hiện khá rõ ở hiện tượng, một người luôn đeo chiếc túi vải có đựng khúc gỗ hay quả bầu vẽ mặt người trong tang ma.
Người Lô Lô ở Việt Nam có lịch sử lâu đời, có nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc.
Người Lô Lô cư trú thành làng. Họ lập làng ở lưng chừng núi và dường như mỗi làng là một dòng họ. Nhà cửa bố trí khá tập trung, mỗi làng truyền thống có từ 20 – 30 nóc nhà. Người Lô Lô có 3 loại nhà khác nhau: nhà đất, nhà sàn, nhà nửa đất nửa sàn.
Trang phục của người Lô Lô có nam và nữ. Nam giới thường mặc áo xẻ nách năm thân dài tới gối, màu chàm. Quần cũng là loại xẻ dùng màu chàm. Trong tang ma, mặc áo dài xẻ nách, trang trí hoa văn theo từng chi và dòng họ.
Phụ nữ Lô Lô để tóc dài quấn ngang đầu. Họ cũng dùng khăn quấn thành nhiều lớp trên đầu hoặc đội. Khăn trang trí hoa văn và tạo tua sặc sỡ. Các nhóm Lô Lô ăn mặc có sự khác nhau. Xưa người Lô Lô phổ biến loại áo dài cổ vuông, ống tay áo dài nối vào thân, có thể tháo ra được. Cạnh đó còn có loại áo ngắn xẻ ngực, cổ cao tròn, cài cúc. Nhóm Lô Lô trắng có áo dài lửng, ống tay rộng, xẻ nách cao theo kiểu đuôi tôm, cổ áo, gấu áo trước sau được trang trí hoa văn trên nền sáng, hoặc tối màu như màu chàm nhưng ít trang trí hoa văn. Cũng có nhóm Lô Lô mặc quần, đi giầy vải.
Người Lô Lô ở Việt Nam có lịch sử lâu đời, có nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc. Để tìm hiểu được sâu sắc dân tộc này, đương nhiên không thể chỉ một bài giới thiệu ngắn. Thế nhưng, thông tin cơ bản này chắc sẽ giúp bạn đọc – những người quan tâm đến với làng Lô Lô để trải nghiệm, chắc chắn sẽ có nhiều gặt hái, thu hoạch qua những chuyến đi đầy thú vị.
TS Phạm Quốc Quân