Đền Cao

Tọa lạc trên đỉnh núi Thiên Bồng, dựa lưng vào dãy núi Voi, trước mặt là dòng Nguyệt Giang, thế đất rồng cuộn hổ ngồi, chín mươi chín ngọn đồi bao bọc xung quanh, 54 cây lim cổ thụ xõa bóng che chắn đã tạo cho đền Cao cảnh trí vừa hùng vĩ, vừa ngoạn mục.

Ngôi đền cùng với đền Cả, đền Bến Tràng, đền Bến Cả tạo nên một cụm di tích danh thắng gắn liền với cuộc đời của năm vị tướng là năm anh em ruột họ Vương đã có công giúp Vua Lê Đại Hành đánh quân xâm lược Tống (năm 981): Vương Đức Minh, Vương Đức Xuân, Vương Đức Hồng, Vương Thị Đào, Vương Thị Liễu. Qua thời gian, cuộc đời cùng chiến công của những vị danh tướng đã được nhân dân huyền thoại hóa để tỏ lòng tôn kính và được truyền tụng đến tận ngày nay.

Đền có kiến trúc kiểu chữ Đinh: 3 gian tiền tế, 2 gian trung từ, 1 gian hậu cung. Mái ngói rêu phong với những đầu đao cong vút, trên mái là bức phù điêu lưỡng long chầu mặt trời. Trước sân đền có thờ voi đá, ngựa đá rất uy linh. Tương truyền, thời xưa giặc Ngô đã cho người lấy đi, sau không hiểu vì sao lại bí mật hoàn trả. Đền được bao bọc bởi rừng cây xanh mướt, càng thêm uy nghiêm bởi sự hiện diện của 54 cây lim cổ thụ hàng trăm năm tuổi, cây già nhất đã hơn 800 tuổi, cao tới 20m. Những cây lim này đã được Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận là “Cây di sản Việt Nam”.

Đền được xây dựng rất sớm, từ thời Tiền Lê, sau khi năm vị tướng qua đời. Vào thời Nguyễn, ngôi đền được trùng tu lại với kiến trúc kiểu chữ Tam và giữ nguyên hiện trạng cho đến nay. Hệ thống cổ vật, đồ thờ tự có giá trị như bia, long đao, bát bửu, ngai còn giữ được khá nguyên vẹn, tiêu biểu là các bức đại tự, câu đối. Trong hậu cung đền hiện còn lưu giữ được nguyên vẹn 12 đạo sắc phong qua các triều vua.

 

Cổng Đền Cao tại xã An Lạc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương - thờ năm anh em họ Vương con của vợ chồng ông Vương Đức Tĩnh và bà Đào Thị Thanh (Ảnh: TL)

Từ lâu, đền Cao đã lưu truyền trong dân gian về sự linh thiêng và bí ẩn mà người đời chưa thể lý giải. Xưa có hai vợ chồng ông họ Vương tên Tĩnh, bà họ Đào tên Thanh, từ Nga Sơn, Thanh Hóa về Hải Dương lập nghiệp. Vì hiếm muộn, hai vợ chồng đã lập đàn cầu đảo giữa trời. Đêm hôm ấy, bà Thanh nằm mơ thấy một vị quan, mũ áo xênh xang hào quang rực rỡ truyền rằng: Gia đình nhà ngươi có phúc dày, trời cao đã biết. Nay Trời ban cho một bọc năm trứng, ba trứng vàng, hai trứng xanh đầu thai vào nhà người làm con quý tử. Hàng ngày, bà Thanh thường ra bờ sông tắm rửa. Một hôm, bà đang tắm chợt thấy sông nước cuồn cuộn, mưa gió ầm ầm, một con giao long ngũ sắc nổi lên cuốn chặt lấy mình bà 3 vòng. Một lát sau mưa gió tự nhiên tạnh hẳn. Từ đó bà có thai. Đến khi mãn nguyệt, bà sinh ra một bọc bung ra 5 trứng. Hai trứng xanh sinh ra 2 con gái, ba trứng vàng sinh ra 3 con trai giờ Mão, ngày 26-10 năm Đinh Mùi. Con trai thì dáng mạo khôi ngô tuấn tú, oai phong lẫm liệt. Con gái thì mặt hoa da phấn, dung nhan khiến chim sa cá lặn. Con gái đầu tên là Vương Thị Đào, con gái thứ hai tên là Vương Thị Liễu, con trai thứ ba tên là Vương Đức Minh, con trai thứ tư tên là Vương Đức Xuân, con trai thứ năm tên là Vương Đức Hồng. Năm chị em được cha mẹ cho đi học, binh thư, chữ nghĩa rất tinh thông, văn chương thành thục. Ngày 63 năm Thiên Phúc, hai ông bà về thăm quê hương, không may gặp bão, thuyền đắm, ông bà mất tại bến đò Thần Phù, Thanh Hóa. Lức bấy giờ giặc Tống xâm lược nước ta, Vua Lê Đại Hành truyền hịch đi khắp nơi tìm người hiền tài ra phò vua giúp nước. 5 người con họ Vương đang còn để tang cha mẹ nên không dám về Triều ứng thí. Đến khi Nhà Vua đem quân đi đánh giặc qua Dược Đậu Trang, Bàng Châu, Nam Sách, Hải Dương, thấy dân cư thuần hậu, địa thế hiểm yếu, bèn lập đồn trại đóng quân. Hàng ngày, thấy 5 chị em đi ngang qua cửa, Vua gọi vào hỏi chuyện, cho thử tài ứng thí. Nhà Vua tuyển dụng, phong chức cho ba anh em trai là Quyền chưởng Trung hoa tể đại tướng và hai chị em gái là Mẫu Nghi chí tôn thiên hạ. Sau khi nhận tước phong các Ngài cùng xin phép Nhà Vua cho được thay thánh giá cầm quân ra đánh giặc. Nhà Vua ưng thuận, ban cho ấn tín, kiếm báu. Ba vị nam tướng cầm quân tiến đánh theo đường bộ. Hai bà giả làm người bán trầu thuốc, lần tìm đến tận nơi đồn sở của giặc, nắm rõ tình hình. Tướng quân Vương Đức Minh đã có sáng kiến đồ xôi giã thành bánh dầy làm lương ăn cho quân sĩ. Cuộc tấn công thần tốc đã giết chết hàng vạn giặc, bắt sống hàng trăm tên. Nhà Vua mở tiệc khao quân, truyền cho năm vị cùng về Triều để ban thưởng. 5 ngài xin ở lại mãn tang cha mẹ về Triều bái yết. Không ngờ Trời linh hóa, đêm hôm đó trời đất tối tăm, mưa gió ầm ầm, 5 ngài đều thăng hóa về trời (đêm 24 tháng Giêng). Sáng hôm sau, trời đất lại sáng trở lại, dân kéo đến xem thì đã thấy mối đất đùn thành những ngôi mộ lớn. Người dân liền lập biểu dâng lên Triều đình. Nhà Vua nghe tin vô cùng thương xót bậc quân thần có công lao với đất nước, liền sai Triều đình về tận nơi làm lễ phúng viếng và phong mĩ tự cho 5 ngài: Vương Thị Đào là “Đào hoa trinh thuận công chúa”, Vương Thị Liễu là “Liễu hoa linh ứng công chúa”, Vương Đức Minh là “Thiên Bồng Đại tướng quân Đại vương”, Vương Đức Xuân là “Dực thánh linh ứng Đại vương”, Vương Đức Hồng là “Anh vũ dũng lược Đại vương”. Năm vị được nhân dân tôn làm “Thượng đẳng phúc thần” và đã xây dựng đền thờ phụng.

Đền Cao nằm trong quần thể lim cổ gần 1000 năm tuổi (Ảnh: TL)

Đền Cao không chỉ là một địa danh cổ, nơi của các di tích lịch sử còn có một lễ hội đặc biệt, đó là lễ xin trùm. Lệ xin trùm ở đền Cao ra đời từ khi lập Đền, đến nay đã được duy trì hơn một nghìn năm và là một nghi lễ linh thiêng được thực hiện vô cùng khắt khe. Để đứng ra lo việc đền hàng tháng, hàng năm sẽ có một cụ trùm và năm vị quan đám đại diện cho bốn ngôi đền trên và một ngôi đình là quan Đông, quan Đoài, quan Nam, quan Bắc và quan Trung. Những người này là bậc cao niên trong làng, sống đức độ, con cháu hiếu thảo thuận hòa. Mỗi tháng 6 vị trên phải ăn chay ngày 13 đến ngày 15 và ngày 29 đến ngày mồng 1 Âm lịch khi tiến hành làm lễ. Các quan đám chỉ được nhận mũ áo và đảm nhiệm việc làng trong một năm từ mồng 2 Tết năm này cho đến mồng 2 Tết năm sau. Sau nhiệm kỳ họ sẽ được làng phong Lềnh và rất được trọng vọng. Riêng ông trùm là người lãnh đạo các quan đám sẽ đảm nhiệm vai trò của mình đến lúc gia đình có việc tang trở hoặc qua đời. Khi đó, lễ xin trùm mới lại được tổ chức và chỉ tiến hành vào ngày 15 tháng 3 hoặc 15 tháng 10 Âm lịch.

Nghi lễ xin trùm được thực hiện một cách nghiêm trang và mang đậm yếu tố tâm linh. Người được phong trùm sẽ được chọn trong số các Lềnh. Trước hết, năm quan đám sẽ tiến hành dâng trầu nước, dâng cỗ lễ chay, thắp hương đen lên các ban. Trên bục hành lễ, quan đám đứng trước sẽ đọc tên khấn với nhà thánh xin phép cho vị đứng sau mình được làm trùm rồi quỳ xuống đội chiếc mâm đồng trên có 2 đồng tiền trinh để trên một thoi vàng phủ vải điều, làm lễ khất keo. Khi vị quan đám hơi cúi đầu để gieo lễ thì hai vị quan đám khác khiêng chiếc mâm đồng đệ phía trước đón hai đồng tiền rơi xuống.

Lễ khất keo này chỉ được phép thực hiện duy nhất một lần. Nếu hai đồng tiền một sấp một ngửa thì lễ xin trùm đã được chấp thuận. Trường hợp ngược lại thì việc xin trùm phải gác lại cho đến dịp sau và các quan đám sẽ tạm thời đảm trách các công việc của trùm. Theo quan niệm năm nào làm lễ xin trùm thành công thì năm đó và những năm tiếp theo trong vùng sẽ được no đủ.

Lễ hội đền Cao được mở từ 21 - 25 Âm lịch tháng Giêng hằng năm (Ảnh: TL)

Lễ hội đền Cao được mở từ 21 - 25 Âm lịch tháng Giêng hằng năm mục đích suy tôn Thành hoàng làng và 5 vị tướng họ Vương. Ngoài ra, nơi đây còn là chốn linh thiêng gắn với sự ra đời của mười hai dòng họ Giao Chỉ thời Bắc thuộc (theo ngọc phả Đền) và địa danh cổ được khắc ghi trong lịch sử (nơi Vua Lê Đại Hành đóng đại bản doanh trong cuộc kháng chiến chống Tống). Trong ngày hội có nhiều hoạt động để người dân tham dự và sinh hoạt như lễ dâng hương (chỉ được đốt hương đen), đọc chúc văn, tế lễ, rước bộ, đu tiên, vật, kéo co, cướp cờ, cờ người, thi bánh dày, chè đông.

Nguyễn Sinh

Top