Chuyện kể về gia đình Bác Hồ vào một năm Mậu Tuất
Sau khi đậu cử nhân ở quê nhà Nghệ An, ông Nguyễn Sinh Sắc vào Huế dự kỳ thi Hội năm Ất Mùi 1895. Kỳ thi này bảng vàng chưa ghi tên Nguyễn Sinh Sắc. Được sự giúp đỡ của ông Cao Xuân Dục - Tế tửu Quốc sử quán, Nguyễn Sinh Sắc về quê đưa vợ con vào Huế tiếp tục học để dự kỳ thi Hội lần sau. Nguyễn Sinh Sắc đưa vợ và hai con trai Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung (tên của Bác Hồ thời niên thiếu) vào Huế, để lại người con gái cả ở quê nhà. (Ba người con của Ông bà Nguyễn Sainh Sắc và Hoàng Thị Loan lúc đó là Nguyễn Thị Thanh (người ta hay nói chữ là thanh bạch), Nguyễn Sinh Khiêm (khiêm tốn), và Nguyễn Sinh Cung (cung kính). Lần vào Kinh đô này, gia đình đã ở lại đây 6 năm, từ 1895 đến 1901. Ở Huế, nhờ sự tác động của ông Cao Xuân Dục, Nguyễn Sinh Sắc được vào học Trường Giám, có chút học bổng, ngoài giờ học ông phải đi chép thuê để nuôi gia đình. Thêm vào đó bà Hoàng Thị Loan vừa chăm sóc con, vừa làm thêm nghề dệt vải.
Cha mẹ thân sinh và chị gái, anh trai của Bác Hồ.
Vào năm Mậu Tuất 1898, Nguyễn Sinh Sắc tham gia kỳ thi Hội ở Huế lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Bao nhiêu hy vọng vào thi cử thành mây khói. Thi không đậu Nguyễn Sinh Sắc mất luôn học bổng ở Trường Giám. Đời sống kinh tế trong gia đình suy sụp. Giữa lúc đó, ở làng Dương Nỗ, cách Huế 6 km về phía Đông, học trò trong làng đang cần chữ. Ông Nguyễn Viết Chuyên, là người cùng quê với ông Sắc làm việc ở Bộ Hình giới thiệu Nguyễn Sinh Sắc về dạy học. Đang lúc buồn vì thi hỏng, lại khó khăn về miếng cơm manh áo, anh cử Nguyễn Sinh Sắc đã nhận lời. Và cuối năm Mậu Tuất 1898 đó, anh để lại người vợ ở Thành Nội và đưa hai con trai về làng Dương Nỗ. Đã phải sống xa với bà ngoại và chị gái ở quê nhà, nay Nguyễn Sinh Cung lại phải sống xa mẹ.
Nghe tin anh cử Sắc về dạy học, dân làng Dương Nỗ và các làng xung quanh đều xin cho con học rất đông. Hai anh em Khiêm và Cung cũng học cùng. Ở đây Cung bắt đầu học chữ Hán. Một hôm, có người đem con đến xin học, thấy hai người con, thầy ngồi bên cạnh liền hỏi: Bẩm thầy, vì sao hai cậu không ở trên thành nội với mẹ mà lại theo thầy về đây? Thầy cử Sắc cười, thầy chỉ vào hai người con và nói đùa rằng: Thằng này là thằng Khơm (tức Khiêm), thằng này là thằng Côông (Tức Cung), Khơm, Côông là không cơm, nên bầy tui đi mô thì đem đi nấy để nhờ gia chủ nuôi. Đó là một sự thật vừa khôi hài, vừa xót xa, chua chát.
Chuyện kể lại rằng, thời gian học ở Dương Nỗ, Nguyễn Sinh Cung học rất thông minh, nhớ rất giỏi nhưng hiếu động, hay bỏ lớp đi chơi lang thang hoặc đi chơi với trẻ chăn trâu. Thấy Cung thông minh và có trí nhớ, các học trò đều tin rằng cậu sẽ đỗ đạt, cha mẹ cậu sẽ được giàu sang, xóm làng sẽ được tiếng hiển vinh. Nhưng Cung thì không thích như thế, hàng ngày cậu hay chốn học đi chơi. Thấy cái gì thích thì cậu học. Cậu thường ra sông tắm mát, hay xuống quét lá rồi nằm ngủ trưa trên cái bệ trước am Bà ở làng phố Nam; Thích nghe kể chuyện đào sông Phổ Lợi (là một con sông đào lớn ở Huế được đào dưới thời Minh Mạng, hoàn thành vào năm 1836. Con sông đã được khắc hình trên Cửu đỉnh ở Huế-TG); chuyện các họ được thờ trong ngôi nhà thờ 7 gian; chuyện làm đình Dương Nỗ. Một hôm, thấy Cung đang hỏi chuyện một chị buôn bán ngoài chợ, bạn rủ về, Cung nói: Các anh về học sau này thi đỗ ra làm quan… còn tôi thì chỗ nào thích tôi học.
Nhiều hôm sau giờ học, từ Dương Nỗ, hai anh em Khiêm và Cung rủ nhau về thăm mẹ. Mỗi lần về, hai cậu mang theo một chút lộc của cha có vài chén rượu nếp, năm ba quả trứng gà. Thăm mẹ xong, hai anh em lại đi bộ trở về Dương Nỗ, bất kỳ trời mưa hay đã muộn bởi vì sáng sớm hôm sau đi học, cũng còn vì nếu ở lại không có cái ăn.
Ba cha con ở Dương Nỗ từ năm Mậu Tuất 1898 đó cho đến mùa hè năm 1900, khi cử nhân Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi ở Trường thi Hương Thanh Hóa. Một điều đáng nhớ là khi đi coi thi, ông Nguyễn Sinh Sắc đem theo người con trai lớn Nguyễn Sinh Khiêm, còn Nguyễn Sinh Cung ở lại với mẹ và người em trai Nguyễn Sinh Xin mới sinh còn nhỏ. Một biến cố lớn đã đến với gia đình trong lần chia tay này. Đó là sức khỏe của bà Hoàng Thị Loan vì sinh thêm đứa con trong hoàn cảnh túng thiếu nên đã lâm bệnh và bà đã qua đời. Sau đó bé Xin vì khát sữa mẹ, quá yếu và cũng đi theo mẹ. Mẹ và em mất khi cha và anh vắng nhà. Ngôi nhà nhỏ trong thành nội ngập trong đau thương, nỗi đau ấy Nguyễn Sinh Cung phải chịu gấp bội phần vì chỉ có một mình không có người ruột thịt bên cạnh.
Làng Sen quê Bác ngày nay.
Trở lại Huế sau khi chấm thi xong, ông Nguyễn Sinh Sắc đem theo các con về Nghệ An. Thời kỳ ở Huế lần thứ nhất này, trong ký ức của tuổi thơ Nguyễn Sinh Cung là những gánh chịu tình cảnh hết sức éo le. Mẹ và em mất, Nguyễn Sinh Cung đã sống trong sự đùm bọc yêu thương của bà con lối xóm. Thêm nữa, so với quê hương xứ Nghệ thì ở Kinh thành Huế có nhiều nhà cửa to đẹp, nhiều cung điện uy nghiêm. Ở Huế, Nguyễn Sinh Cung cũng thấy có nhiều lớp người, những người Pháp thống trị nghênh ngang, hách dịch và tàn ác; những ông quan Nam triều bệ vệ trong những chiếc áo gấm, hài nhung, mũ cánh chuồn nhưng lại khúm núm, rụt rè. Phần đông người lao động thì chịu chung số phận đau khổ và tủi nhục. Họ là những người nông dân rách rưới mà người Pháp gọi là bọn nhà quê, những phu khuân vác, những người cu ly kéo xe tay, những trẻ em nghèo khổ, lang thang trên đường phố… Những hình ảnh đó đã in sâu vào ký ức Nguyễn Sinh Cung. Đó chắc chắn là những nhân tố góp phần hình thành nhân cách và quyết định đúng đắn của Nguyễn Tất Thành sau này.
Riêng ở Dương Nỗ, tuy sống ở đó không dài, chỉ hơn hai năm so với 10 năm cùng gia đình sống ở Huế. Nhưng sau này, khi gặp các cán bộ Thừa Thiên Huế, Bác vẫn nhắc nhớ về ngôi đình làng Dương Nỗ, Bến Đá, Am Bà và những nơi Người thường lui tới thời ấu thơ.
Vẫn sẽ còn nhiều điều phải tìm hiểu về thời kỳ gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Huế. Như cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói trong Bức điện gửi Hội thảo khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh tại Thừa Thiên Huế năm 1993: “Bác Hồ là một con người lạ lùng, một cuộc đời lạ lùng, với những hoạt động lạ lùng, đưa đến những thành tựu lạ lùng. Chính cái lạ lùng đó đã tạo nên sự huyền bí về một vĩ nhân trong lịch sử dân tộc mà chúng ta và con cháu mai sau vẫn mãi tìm tòi, suy ngẫm. Bởi vậy nhiều nhà nghiên cứu có tên tuổi trong và ngoài nước, nhiều chương trình cấp quốc gia đã đi sâu vào việc tìm hiểu con người và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng còn nhiều vấn đề chưa giải quyết thỏa đáng. Một trong những vấn đề chưa thỏa đáng đó là thời gian Bác Hồ sống ở Huế…với thời gian và cảnh vật của nó đã ảnh hưởng như thế nào đến sự hình thành con người Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.”
Bác Hồ thời trẻ.
Chúng ta biết sau khi đưa hai con trở về Nghệ An, năm 1901, ông Nguyễn Sinh Sắc lại trở lại Huế dự kỳ thi Hội lần thứ ba. Kỳ thi năm Tân Sửu đó ông đã đỗ Phó bảng. Và mãi đến năm 1906 ông mới nhậm chức Thừa biện Bộ Lễ, trông coi việc học hành ở Quốc Tử Giám. Tháng 6 năm 1901, hai anh em Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung với tên mới là Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế sống và làm việc đến tháng 7 năm 1909.
Huế là “quê hương thứ hai” nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống, học và lao động trong hai giai đoạn (1895 - 1901) và (1906 - 1909). Nơi đây đã ghi những dấu ấn sâu đậm trong sự trưởng thành của tuổi trẻ Bác Hồ, nay vẫn được bảo tồn trong một hệ thống các di tích về gia đình Người: Đó là cụm di tích nằm trên trục đường Đông Ba (nay là đường Mai Thúc Loan) có ngôi nhà số 112 gia đình Người đã sống, Trường Tiểu học Pháp- Việt Đông Ba, nơi Nguyễn Tất Thành đã học; Có cụm di tích trên đường Lê Lợi với Trường Quốc học nơi Bác đã học, Tòa Khâm sứ Trung kỳ, nơi Nguyễn Tất Thành tham gia phong trào chống thuế năm 1908, có Bảo tàng Hồ Chí Minh, Chi nhánh Thừa Thiên Huế…
Cụm di tích tại làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang với Nhà lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số địa điểm như Đình làng, Bến Đá và Am Bà. Đó là nơi tuổi thơ Bác Hồ đã sống, trải nghiệm những biến cố đầu tiên của gia đình, vào đúng năm Mậu Tuất 120 năm trước.
TS Nguyễn Thị Tình