Người Cơ Ho

Người Cơ Ho có nhiều tên gọi và cách viết khác nhau: Cờ Ho, Kơ Ho hoặc Kờ Ho, K’Ho. Tuy nhiên, Cơ Ho là tên gọi và cách viết chính thức của Nhà nước Việt Nam đối với dân tộc này. Đó là một dân tộc thiểu số trong 54 dân tộc anh em, đang sinh sống, làm việc và cống hiến cho mảnh đất hình chữ S thân yêu, mang tên gọi Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hôm nay.

Người Cơ Ho nói tiếng Cơ Ho, thuộc ngữ chi Bana và ngữ hệ Nam Á. Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Cơ Ho có khoảng 166.142 người, cư trú tại 46 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, địa bàn cư trú chủ yếu của họ là tỉnh Lâm Ðồng, Bình Thuận, Khánh Hòa, Ninh Thuận.

Với dân số không đông, nhưng cư trú không mấy tập trung, người Cơ Ho được chia thành nhiều nhóm, dựa trên địa bàn, ngôn ngữ và tập quán sinh hoạt.

- Cơ Ho Srê là nhóm đông nhất, tiếp đến là Cơ Ho Chil. Trước đây, Cơ Ho Chil cư trú rải rác trên vùng núi cao, thuộc thượng lưu sông Krông Knô (Bắc và Tây Bắc cao nguyên Lang Biang). Sau này, do tình trạng du canh, du cư, họ chuyển về phía Nam – vùng Bắc và Ðông Bắc Ðà Lạt – kề cận với địa bàn cư trú của nhóm người Cơ Ho Lạt, người Chu Ru và Raglai. Hiện nay, họ cư trú trên địa bàn Ðức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương, Ðôn Dương – những huyện phụ cận của Thành phố Ðà Lạt.

- Cơ Ho Lạt cư trú tập trung ở xã Lát và một số thung lũng quanh thành phố Ðà Lạt. Do có điều kiện giao lưu, tiếp xúc với người Kinh nhiều thế hệ, nên đời sống kinh tế nhóm này có những tiến bộ đáng kể so với nhiều nhóm Cơ Ho khác.

- Cơ Ho Nộp cư trú ở phía Nam Di Linh, ven đường Di Linh - Phan Thiết. Họ sống sen cài với người Chăm nên một số phong tục có sự tiếp biến, đó là ăn trầu, trồng trầu, cau xung quanh nơi ở.

- Cơ Ho Cờ Ðôn cư trú ở miền núi phía Ðông - Nam Di Linh (Gia Bắc) - kế cận với nhóm Cơ Ho Nộp, tập trung đông nhất tại xã Ðình Trang Hòa, huyện Di Linh.

- Cơ Ho T’ring cư trú tập trung ở hai tỉnh Khánh Hòa, Lâm Ðồng.

Người Cơ Ho nói tiếng Cơ Ho, thuộc ngữ chi Bana và ngữ hệ Nam Á. Ảnh: internet

Kinh tế sản xuất nông nghiệp là mũi nhọn của người Cơ Ho. Tuy nhiên, ở mỗi nhóm, dựa vào thổ nhưỡng và khí hậu, họ có những phương thức canh tác khác nhau. Người Cơ Ho Srê, trồng lúa nước trong các thung lũng hẹp. Các nhóm khác thì làm nương rẫy với các công trình như lúa nương, ngô, sắn. Nhóm Cơ Ho làm rẫy thường sống du canh, du cư, để lại nhiều hệ lụy về sự bạc màu của nương rẫy, phá rừng và bào mòn độ phì nhiêu của đất.

Ngoài lúa, ngô, sắn, họ còn trồng xen trong nương rẫy của mình bầu, bí, mướp, đậu… Người Cơ Ho cũng biết làm vườn với các loại cây ăn trái như mít, chuối, đu đủ, bơ…

Chăn nuôi gia súc cũng là một mặt trong đời sống kinh tế của ngươi Cơ Ho. Họ nuôi trâu, bò, lợn, dê, gà, vịt…theo phương thức thả rông. Những thực phẩm ấy hỗ trợ cho bữa ăn hàng ngày và phục vụ cho những dịp lễ hội với những nghi lễ hiến tế thường xuyên trong năm.

Ngoài nông nghiệp trồng lúa nước và nương rẫy, người Cơ Ho cũng giống rất nhiều dân tộc khác, có kinh tế săn bắt, hái lượm những của cải từ rừng, với sự khai thác triệt để. Ðó là nguồn thực phẩm hỗ trợ  đắc lực cho kinh tế nông nghiệp rất bấp bênh của họ, khi thiên nhiên thất thường đe dọa. Nghề thủ công như đan lát, rèn, gốm, dệt…chỉ là để tự cấp. Không phải tất cả các nhóm Cơ Ho đều có những nghề thủ công nêu trên. Người Cơ Ho Chil có nghề dệt và một vài nhóm khác có nghề làm gốm rất nguyên thủy, không bàn xoay, không nung trong lò. Ðó là những tài liệu vô cùng quý giá cho các nhà nghiên cứu khảo cổ học tham chiếu.

Công cụ sản xuất của người Cơ Ho truyền thống rất thô sơ, lạc hậu: rìu, chà gạc để chặt cây. Ðó là đoạn tre già làm cán và một đầu tra lưỡi sắt. Gậy chọc lỗ tra hạt. Người Cơ Ho chil còn có thêm chiếc gậy vừa có chức năng chọc lỗ, vừa có chức năng tra hạt, có tên là P’hal. Ðó là công cụ cán gỗ, lưỡi sắt dài 28cm, rộng 3-4cm. Người Cơ Ho Srê, do canh tác ruộng nước, nên bộ công cụ của họ có cuốc, cầy, bừa, Koc (trang gỗ để mặt ruộng bằng phẳng). Cuốc, cầy, bừa truyền thống của người Cơ Ho Srê hoàn toàn bằng gỗ, sau này được tra lưỡi sắt. Sức kéo cầy, bừa đều bằng trâu đôi (2 con kéo cho một chiếc cầy hoặc một chiếc bừa).

Ðơn vị tổ chức xã hội thường thấy của người Cơ Ho và Bon, đó là đơn vị tương đương với một làng, một bản. Nó vừa đảm trách là một đơn vị tổ chức xã hội, vừa đảm trách là đơn vị kinh tế tự túc, tự cấp của dân tộc này. Bon chính là một làng truyền thống theo kiểu một công xã nông thôn mang đậm dấu ấn của thị tộc mẫu hệ dựa trên cơ sở cư trú trong những căn nhà dài, kề cận nhau theo nhóm dòng họ. Ðứng đầu Bon là già làng. Già làng cũng giống như các thành viên khác trong làng về quyền lợi kinh tế, nhưng về tinh thần, họ có uy tín gần như tuyệt đối. Già làng là hiện thân của truyền thống và là yếu tố gắn kết cộng đồng trong xã hội cổ truyền của người Cơ Ho. Già làng, chủ rừng, thầy cúng và các gia trưởng hợp thành tầng lớp trên của xã hội Cơ Ho truyền thống, kề từ đây, xã hội Cơ Ho đã có sự phân biệt giàu nghèo, dẫu rằng không sâu sắc, gay gắt. Tầng lớp trên có tôi tớ, con ở trong nhà, có chiêng, ché, nồi đồng, mặc dù, không thấy rõ sự bóc lột lao động giữa người giàu và kẻ nghèo. Ở những vùng tập trung, giữa các Bon có sự liên minh với nhau trên cơ sở tự nguyện, để tạo nên một tổ chức xã hội lớn hơn, đó là M’đrông.

Ảnh: internet

Trong xã hội truyền thống của người Cơ Ho đã từng tồn tại hai hình thức gia đình: gia đình theo chế độ mẫu hệ, gia đình lớn và gia đình nhỏ. Người phụ nữ đứng vai trò chủ động trong hôn nhân. Chồng ở nhà vợ, con cái lấy họ mẹ, con gái là người thừa kế. Người Cơ Ho cấm tuyệt đối hôn nhân cùng huyết thống. Con chú, con bác, con dì không được lấy nhau, nhưng con cô, con cậu lại được kết hôn theo luật tục. Sau khi vợ chết, người chồng có thể kết hôn với em gái vợ và ngược lại, người vợ góa có thể kết hôn với em trai của chồng, nếu đôi bên ưng thuận.

Sinh hoạt ẩm thực của người Cơ Ho theo chế độ 3 bữa mỗi ngày. Họ thường ăn bốc, lương thực chính là gạo, thức ăn là cá, thịt, rau. Các món ăn thường chế biến khô để tiện cho việc bốc. Người Cơ Ho hút các loại cây thuốc phơi khô cuốn lại, uống rượu làm từ gạo, ngô, sắn với men từ cây rừng.

Trang phục của đàn ông là khố bằng vải rộng, dài 1,5m – 2m, có hoa văn trải dọc. Phụ nữ cuốn vải quanh người rồi giắt cạp, tạo thành váy. Váy có nền đen, có diềm hoa văn trắng. Nếu trời lạnh, họ khoác thêm chăn ra ngoài. Phụ nữ đeo vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai làm đồ trang sức.

Nhà ở của người Cờ Ho là nhà sàn dài bằng gỗ, hai mái uốn cong, lợp bằng cỏ tranh, có liếp nghiêng ra phía ngoài và cũng thưng cỏ tranh để chống lạnh. Trước cửa ra vào là cầu thang lên xuống, vách đối diện với cửa để ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt như ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách đều diễn ra quanh bếp lửa trong nhà.

Người Cơ Ho tin vào sức mạnh siêu nhiên, thờ đa thần. Vị thần tối cao là Nđu, sau đó là thần Mặt trời, Mặt trăng, thần Núi, thần Sông. Giờ đây, cộng đồng Cơ Ho cũng có bộ phận theo công giáo Rôm và Tin lành. Kinh thánh và tài liệu truyền giáo được dịch ra chữ Cơ Ho để tiện cho việc giảng đạo.

Người Cơ Ho viết theo hệ thống chữ La Tinh, du nhập vào cộng đồng này, đâu đó vào thế kỷ trước, nhưng không thể phổ cập.

Văn học nghệ thuật của người Cơ Ho khá phong phú. Thơ ca đậm chất trữ tình. Vũ khúc cổ truyền được trình diễn trong các lễ hội. Nhạc cụ truyền thống như cồng, chiêng, kèn ống bầu, đàn ống tre, trống…tạo thành những dàn hòa âm hoặc độc tấu.

Linh mục Giáo sư Ka La huyện Di Linh, tỉnh Lâm Ðồng là ông Nguyễn Huy Trọng đã sưu tầm được 400 truyện cổ tích, 30 trường ca, sử thi của người Cơ Ho, trong đó có Trường ca Gơ Plom Kòn Yồi dài hơn 6000 câu.

Hàng năm, người Cơ Ho tổ chức ăn Tết khi mùa màng đã thu hoạch xong. Ðó là tết đón lúa về nhà. Theo tập quán, các gia đình thay phiên nhau, mỗi năm hiến một con trâu để cả Bon tổ chức lễ đâm trâu. Sau lễ, thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu bôi vào trán mỗi người dự lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài từ 7 đến 10 ngày.

Trên đây là đôi nét chấm phá về người Cơ Ho. Dân tộc này còn quá nhiều điều để nói với những nền văn hóa vật thể và phi vật thể vô cùng phong phú và bí ẩn của họ. Giờ đây, đã có nhiều giá trị bị phôi pha bởi nhiều lý do khách quan và chủ quan, theo đó, công việc bảo lưu, gìn giữ và phát huy rất cần được Ðảng, Nhà nước, chính quyền địa phương và cộng đồng quan tâm, để những giá trị ấy ngày càng được tôn vinh trong một Ðông Nam Á đa sắc màu đang hội nhập.

Ngọc Trân

Top