Làng An Cốc gồm hai xóm An Cốc Thượng và An Cốc Hạ, cách nhau một đoạn đê nằm ở hữu ngạn sông Nhuệ. Nơi đây, thuở trước được mệnh danh là chốn tổ của nghề làm giấy dó. Những vị bô lão trong làng An Cốc không ai biết chính xác nghề làm giấy dó có từ khi nào. Chỉ có những lớp nghệ nhân từ thời này sang thời khác truyền miệng rằng làng tôn thờ hai vị tổ nghề làm giấy.
Một vị tổ nghề có tên là Thái Luân, truyền nghề cho dân gian từ cuối thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên. Vị tổ thứ hai, không rõ họ tên là người làng, sau khi đi sứ Trung Hoa học được nghề làm giấy đã đem nghề về truyền dạy cho dân làng, rồi ông lên Kinh thành Thăng Long truyền dạy nghề làm giấy dó cho dân hai làng Nghĩa Đô, Yên Thái.
Quy trình làm giấy dó khá cầu kì và phức tạp. Loại giấy này được làm từ cây dó - một thứ cây hoang dại mọc ở rừng, ven sông Lô, sông Thao, có nhiều xơ. Cây được ngâm nước sông Nhuệ từ hai đến ba ngày rồi vớt lên, để ráo, sau ngâm với nước vôi hòa muối, rồi đem đặt trong nồi đồng nấu chín để có thể bóc lần lượt từng lớp vỏ. Bóc đến lớp cuối cùng thì đem giã mịn như bột mới cho vào giá vò có ken nan thật dày để đãi trôi hết vỏ. Sau đó lại đem phần bột đó giã đến khi quánh, mịn như bánh dày. Khâu cuối cùng là xeo giấy, phơi giấy. Mà làm loại giấy nào sẽ phụ thuộc vào cách xeo giấy dày, mỏng, phụ thuộc vào cả “ngữ chỉnh” ở khuôn xeo. Trong số bảy loại giấy dó truyền thống được người An Cốc sản xuất thì Hành Di và giấy sắc là nổi tiếng nhất, là niềm tự hào của người làng. Hành Di là loại giấy dó viết đẹp nhất, tốt nhất, giấy có hoa văn cổ, chuyên để tiến Vua, Chúa. Còn giấy sắc là loại giấy pha màu và hoa văn rồng, nhũ bạc, được cung cấp cho Triều đình để dùng vào việc viết sắc phong Thành hoàng làng.
Làng An Cốc làm rất nhiều loại giấy, không chỉ có giấy dó, mà còn giấy phương cho các làng vàng mã, giấy khay để gói hàng, giấy trúc để viết, làm quạt, làm pháo... Đã có thời gian, một nhà máy giấy được hình thành ngay tại An Cốc và chủ yếu là sản xuất giấy vở học sinh, các loại giấy khác đa phần vẫn do các hộ dân làm. Thế nhưng sau gần hai mươi năm hoạt động, với nhiều lý do, nhà máy giấy đã phải đóng cửa. Cũng thời điểm đó, người dân An Cốc tập trung sản xuất giấy trúc, loại giấy chủ yếu phục vụ cho việc gói hàng, làm quạt, làm pháo. Dù làm nghề này rất vất vả song người An Cốc quyết theo nghề. Người làng còn truyền nghề cho cả con gái. Con gái lấy chồng mang nghề về bên chồng.
Giấy dó của làng từng là giấy viết phong sắc vua ban cho các thành hoàng, thần sắc… Những năm chiến tranh, An Cốc không chỉ làm giấy dó cổ truyền mà những sản phẩm của họ còn được dùng làm giấy in báo Cứu quốc, in vở Bình dân học vụ…Ngày trước, ngoại trừ hai vụ cấy gặt, thời gian còn lại trong năm, nhà nhà, người người đều làm giấy. Nhưng đó là chuyện của vài trăm năm về trước, còn từ gần hai thập kỉ nay, người An Cốc phiêu dạt tứ xứ. Từ đầu những năm 90 của thế kỉ trước trở lại đây, cùng với các loại giấy cao cấp nhập ngoại, sự xuất hiện của các sản phẩm giấy do các nhà máy giấy hiện đại như Bãi Bằng, Trúc Bạch sản xuất khiến giấy An Cốc không đủ sức cạnh tranh. Nhu cầu dùng giấy trúc để gói hàng, làm pháo ngày càng ít đi dẫn đến việc An Cốc đánh mất thị trường tiêu thụ. Nghề truyền thống trở nên ảm đạm, mai một. Lớp trẻ chỉ thấy nghề qua ngày hội làng, tổ chức vào ngày 9 và 10 tháng Giêng hàng năm. Hiện, An Cốc có hơn 500 hộ (2.500 khẩu). Người bám làng thì buôn đồng nát, cày cấy; kẻ ly hương thì phiêu dạt khắp miền.
Mỗi năm làng An Cốc giỗ tổ hai lần, lần thứ nhất vào ngày 9, ngày 10 tháng Giêng, lần hai vào ngày 9 đến 12 tháng 8 Âm lịch. Vào những ngày này, thợ làm giấy từ Yên Hòa, Yên Thái - vốn xuất thân từ An Cốc - đều nhớ ngày giỗ tổ mà về. Những nghệ nhân già trong làng đều đau đáu nhớ nghề. Chỉ mong trong một ngày gần nhất mùi giấy, mùi hồ lại thơm khắp đường làng An Cốc.
Thanh Huyền