Lễ hội Thánh Gióng - Một ký ức văn hóa

Huyền thoại Thánh Gióng đã có cuộc đời dài như lịch sử dân tộc và Lễ hội Gióng đã có từ vài trăm năm trước. Nghiên cứu huyền thoại và Hội Gióng hơn trăm năm có lẻ. Bài viết này muốn đề cập tới việc tiếp cận lễ hội nói chung và Hội Gióng nói riêng từ quan điểm có tính biện chứng của Nhà văn hóa học người Đức Jan Asman khi coi lễ hội như là hình thức đầu tiên của ký ức văn hóa.

Thiên truyền thuyết/truyện thần thoại Thánh Gióng từ ký ức huyền thoại/ký ức tín ngưỡng đã để lại một ký ức không gian trên nhiều di tích cả một vùng Trung Châu rộng lớn, đặc biệt được lưu giữ và trao truyền qua ký ức lễ nghi và diễn xướng của Lễ hội Thánh Gióng.

1. Ký ức huyền thoại

Thánh Gióng là một trong những thiên huyền thoại đẹp và hoành tráng nhất của người Việt thể hiện tinh thần và sức mạnh trong đấu tranh chống ngoại xâm, giữ nước.

 Chuyện kể rằng: Vào đời Hùng Vương thứ 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao ước có một đứa con. Một hôm, bà ra đồng trông thấy một vết chân to quá, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh một chú bé mặt mũi khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cứ đặt đâu thì nằm đấy.

Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, Nhà Vua lo sợ, bèn truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tin, bỗng dưng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây". Sứ giả vào, đứa bé bảo: "Ông về tâu Vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này".

Sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu Vua. Nhà Vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn. Càng lạ hơn nữa, sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, thành thử phải chạy nhờ bà con, hàng xóm. Bà con đều vui lòng gom góp gạo thóc nuôi chú bé, vì ai cũng mong chú giết giặc, cứu nước.

Rước ngựa là phần không thể thiếu trong lễ hội Gióng. (Ảnh: TL)

Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó, sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gẫy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn). Đến đấy, một người một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.

Vua nhớ công ơn, không biết lấy gì đền đáp, phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà. Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng 4 làng đều mở hội. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Người ta còn nói, khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy.

2. Ký ức tín ngưỡng

Từ ký ức huyền thoại, Thánh Gióng đã đồng thời/ kế tiếp trở thành Ký ức tín ngưỡng là một hình thức ký ức cộng đồng sâu sắc và mạnh mẽ nhất.        

Lễ rước Voi  (Ảnh: TL)

“Từ lâu người ta đã thờ Ông Đổng - Cha khổng lồ ở một cái miếu cổ và cúng Ông bằng bát cơm đĩa cà (cúng chay vào tiết mưa giông đầu hè mồng 9 tháng 4 Âm lịch). Theo các cụ, trước và trong ngày ấy bao giờ cũng có gió bão sấm chớp mưa to. Các cụ nói: đó là “Ông Đổng về hái cà” hay “Gió hái cà”. Cũng từ lâu làng Gióng được gọi là Kẻ - Đổng[3, tr.486]và có tục trồng riêng một sào cà dành cho Ông Đổng về hái. Ở các ruộng khác, người ta thường cắm cạnh mỗi cây cà một “que bông”, tức là những que tre dài, ở một đầu có vót thành xơ xoắn xuýt dính vào thân que như hoa cà, ngụ ý để dành cho Ông Đổng, kẻo Ông trảy cà, gây thiệt hại đến mùa cà [3. tr.486].”

Thánh Gióng hay là Phù Đổng Thiên Vương hay Xung Thiên Thần Vương, đã trở thành một trong bốn vị Thánh bất tử trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (tứ bất tử).

3. Ký ức văn bản

Nhiều thế kỷ về sau, với phát triển ý thức dân tộc và văn tự, thiên huyền thoại đó đã được trí thức phong kiến Việt Nam sưu tầm ghi chép và văn bản hóa. Nó trở thành Ký ức văn bản, ví dụ: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư  là một trong những ghi chép lại về Thánh Gióng.

Thiên huyền thoại được lưu giữ vào ký ức văn bản như một bước tiến của ký ức văn hóa. Tuy nhiên, sức sống của nó trong ký ức dân gian còn mạnh mẽ hơn khi nó bước ra khỏi sử sách để sống một cách mãnh liệt trong tâm thức và khát vọng của nhân dân ta góp nên ký ức cộng đồng. 

4. Ký ức không gian

Không dừng lại ở đó, Thiên huyền thoại còn được lưu giữ trong Ký ức không gian với nhiều dấu tích và di tích:

“Ngày nay dấu chân Ông Đổng còn thấy ở nhiều nơi: làng Bình Tân (xã Thị Cầu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh), núi Đạm (xã Nam Sơn, huyện Quế Võ), núi Khám (xã Việt Đoàn, huyện Tiên Sơn), bờ giếng làng Bưởi - nồi (xã An Bình, huyện Gia Lương), đỉnh Sóc (huyện Đa Phúc, tỉnh Vĩnh Phú) và đặc biệt là làng Gióng(còn gọi là Vườn Đổng, Đổng Viên hay Cố Viên), được nhận là vườn quê bà mẹ Gióng.” [3; tr.486] Ở đây có một đặc điểm nổi bật trong văn hóa Việt là mối quan hệ biện chứng giữa không gian hóa huyền thoại và huyền thoại hóa không gian. Dường như mỗi bước ta đi ở Trung Châu mà ngỡ như đi trong một không gian huyền thoại. Và điều này không chỉ đúng với huyền thoại Thánh Gióng. Do đó, Giáo sư Trần Quốc Vượng nhận thấy tính đa bình diện của ký ức không gian này: một không gian địa lý - lịch sử và một không gian biểu tượng.

Nghi lễ rước hoa tre trong Lễ hội Gióng. (Ảnh: TL)

Trước hết Giáo sư đề cập tới một không gian địa lý - lịch sử:

"Không gian phân bố các di tích có liên quan đến huyền thoại Gióng là một miền chân núi Châu thổ Bắc Bộ, được khoanh lại trong vùng Tam giác nâu, với 3 đỉnh là:

1 - Làng Phù Đổng bên bờ sông Đuống: Quê hương và là nơi xuất phát của Thánh Gióng, người khổng lồ ba tuổi.

2 - Núi Châu Cầu (Vũ Ninh nay thuộc Quế Võ) ở Lục Đầu Giang: "Chiến trường" chống "Giặc Ân xâm lược, nơi Thánh Gióng giết tướng giặc Ân là Thạch Linh (Tinh Đá).

3 - Núi Sóc hay đặng núi Sót - đúng hơn là miền "trước núi" của dải Tam Đảo hùng vĩ, nơi Thánh Gióng cưỡi ngựa bay lên trời, nối Châu Sơn và Sóc Sơn là một sống đất cao dần lên, trên đó điểm từng cụm "Vết chân ngựa Gióng".

Đó là không gian của một "bộ" (vùng) - bộ Tây Vu trong phức thể gọi là 15 bộ hợp thành "nước" Văn Lang của các Vua Hùng, hay là vùng chân núi giáp đồng bằng, cái nôi của văn hóa Việt và người Việt cổ”.  Sâu hơn không gian lịch sử và địa lý đó là trầm tích một không gian biểu tượng.

Ngoài ra, làm nên ký ức không gian còn có hệ thống đền thờ Thánh Gióng. Ví dụ, đền Phù Đổng hay còn gọi là đền Gióng thờ Thánh Gióng, nằm ở xã Phù Đổng, Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội.

 Trong hậu cung có tượng Thánh Gióng và các tướng hộ vệ, cũng là nơi giữ đạo sắc phong của các triều đại phong kiến. Có thể nói, “ký ức không gian ấy “ và "những vết chân ngựa Gióng" “còn in hằn trên mặt đất, mãi mãi in sâu trong lòng người, trong lòng lịch sử... như chứng cứ muôn đời của kỳ tích anh hùng..”  

4. Ký ức lễ nghi

 Hội Gióng là lễ hội truyền thống hàng năm được tổ chức ở nhiều nơi thuộc vùng Hà Nội để tưởng niệm và ca ngợi chiến công của người anh hùng truyền thuyết Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Theo Nguyễn Văn Huyên, "việc tổ chức Hội Gióng như ngày nay mới bắt đầu từ khoảng thế kỷ 11, đời Lý Thái Tổ." Lý Công Uẩn trước khi sáng lập ra Triều Lý sống ở chùa Kiến Sở, gần đền Phù Đổng và thường đến đây dâng hương cầu xin Thần cho biết vận mệnh đất nước. Sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã ra lệnh tôn tạo, mở rộng đền Phù Đổng và quy định thể thức tổ chức lễ hội.

Ngựa gỗ tượng trưng cho ngựa sắt của Thánh Gióng năm xưa. (Ảnh: TL)

Hội Gióng ở Sóc Sơn và Hội Gióng ở xã Phù Đổng có ý nghĩa và hoàn chỉnh hơn những nơi khác, từ ý tứ truyền thuyết đến nghệ thuật diễn xướng, hay nói theo Jan Asman, từ Ký ức huyền thoại đến Ký ức lễ nghi. Những nghi thức được quan tâm, chứa đựng trong nó sự huyền bí và sức sống của một huyền thoại gắn liền với lòng tự chủ dân tộc của người Việt Nam. Ở phương diện này, có thể coi Hội Gióng như hình thức ký ức văn hóa đầu tiên.

Đây là cơ hội để người tham dự được chứng kiến một hệ thống lễ thức với các thao tác thuần thục, uy nghi, mang tính nghệ thuật và biểu tượng cao nhằm tái hiện mối quan hệ nhiều chiều giữa làng và nước, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và ảo, giữa thiêng liêng và trần tục. Trong bài viết này dành mối quan tâm và phân tích Hội Gióng Phù Đổng.

Hội Gióng Phù Đổng chính thống được tổ chức hàng năm vào hai ngày mùng 8 và mùng 9 tháng 4 Âm lịch tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, nơi sinh ra người anh hùng huyền thoại “Phù Đổng Thiên Vương“. Để biểu đạt những ý tưởng và triết lý dân gian, Hội Gióng Phù Đổng có dàn vai diễn hết sức phong phú và độc đáo. Đó là các ông “Hiệu“, hệ thống tướng lĩnh của ông Gióng: “Phù Giá”, đội quân chính quy; các “Cô Tướng”, tượng trưng các đạo quân xâm lược; phường “Ải Lao“, trong đó có “Ông Hổ“, đội quân tổng hợp; “làng áo đỏ”, đội quân trinh sát nhỏ tuổi; “làng áo đen”, đội dân binh v.v… Hội Gióng như một kịch trường dân gian rộng lớn với hàng trăm vai diễn. Cũng như các đạo cụ, y phục, mỗi chương mục, mỗi  vai diễn đều chứa đựng những ý nghĩa hết sức sâu sắc. “Rước khám đường“ là “trinh sát giặc”; “rước nước” là để tôi luyện khí giới trước khi xuất quân; “rước Đống Đàm” là đi đàm phán kêu gọi hoà bình; “rước trận Soi Bia” là mô phỏng cách điệu trận đánh ác liệt. Lại như lá cờ phướn màu đỏ mà trên đó viết chữ “Lệnh” tôn nghiêm cùng với các động tác múa cờ Lệnh của ông Hiệu Cờ (vai diễn tượng trưng ông Gióng) là biểu đạt một số quan điểm cơ bản của phép luyện quân cùng phương pháp tác chiến để giành thắng lợi. “Binh pháp phải mưu lược sáng tạo” (múa cờ thuận và múa cờ nghịch). Còn như “Phù giá ngoại“ (đội hình có tới 120 người) là những vai diễn đóng khố, cởi trần, đầu đội mũ có hình quả dưa, trên có đính 9 con rồng nhỏ tượng trưng cho Đất, vai đeo một túi “bán nguyệt” có hình nửa vầng trăng tượng trưng cho Trời, tay cầm chiếc quạt giấy màu nâu khắc cụp, khắc xòe theo khẩu lệnh của các ông “Xướng“ và “Xuất“ tượng trưng cho loại vũ khí có sức biến ảo khôn lường. Tất cả hoà quện trong vai diễn Phù giá làm nổi rõ sức mạnh vô địch khi người chiến binh được thấm nhuần hào khí thiêng của đất trời quê hương. Trong lễ hội có 28 cô gái trẻ đóng vai tướng giặc, tượng trưng cho 28 đạo quân xâm lược nhà Ân.

Hội Gióng là nghi thức thờ cúng anh hùng dân tộc, đồng thời là cuộc tổng diễn xướng anh hùng ca Thánh Gióng trên  quy mô rộng lớn. Hội Gióng là bước phát triển phong phú của anh hùng ca dân tộc. Một lần nữa, huyền thoại này đã làm sống lại chủ đề và hình tượng người anh hùng tập thể của bộ lạc thông qua những yếu tố cổ nhất, hồn nhiên nhất.

Dâng lễ vật lên Thánh. (Ảnh: TL)

Như là một ký ức văn hóa phong phú và đa dạng, Lễ hội Thánh Gióng là sự chuyển hoá và tổng hợp từ ký ức huyền thoại<-> ký ức tín ngưỡng<-> ký ức không gian<-> ký ức văn bản <-> ký ức lễ nghi. Có thể nói, Lễ hội Thánh Gióng đã biểu tượng hóa, diễn xướng hóa và vừa mã hóa, vừa giải mã huyền thoại Thánh Gióng để truyền đạt về một ý niệm văn hóa của dân tộc ta, đó là chủ nghĩa anh hùng yêu nước và đưa nó tái hòa nhập vào ký ức cộng đồng. Bởi vậy, nó là một giá trị văn hóa có tầm vóc đặc biệt. v

Tài liệu tham khảo:

1. Jan Assman, Ký ức văn hóa, Nxb.Rohwolt, Muenchen, 1991.

2. Nguyễn Văn Huyên - “Hội Phù Đổng (một trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt Nam - 1938” trong Lễ hội Thánh Gióng, Nxb. Văn hóa Thông tin, H.2009, tr.380.

3. Cao Huy Đỉnh, “Người anh hùng làng Gióng”, trong Lễ hội Thánh Gióng, Nxb. Văn hóa Thông tin, H.2009, tr. 485 - 632.

PGS.TS Nguyễn Tri Nguyên

Top