Lễ hội dân gian đặc sắc của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận
Khi hoa Tagilao nở tím sườn núi, làng Chăm Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận nô nức chuẩn bị Tết Katê. Lễ hội Katê được tổ chức vào đầu tháng 7 Chăm lịch (tương ứng cuối tháng 9 - đầu tháng 10 lịch dương). Trước đây, dù được mùa hay mất mùa, ngày hội Katê đều kéo dài một tháng. Hiện nay, lễ hội này của người Chăm đã được rút ngắn với thời gian một tuần, trong đó, những lễ thức quan trọng sẽ tiến hành 3 ngày liên tục.
Lễ hội Katê được tổ chức vào đầu tháng 7 Chăm lịch (tương ứng cuối tháng 9 - đầu tháng 10 lịch dương).
Tháp Pô Klong Garai là nơi diễn ra các nghi thức tôn giáo của Lễ hội Katê. Các hoạt động lễ hội không chỉ được tổ chức ở xung quanh khu vực tháp thiêng mà còn mở rộng đến bản làng của người Chăm với nhiều hoạt động văn hóa thể thao sôi động.
Katê là dịp người Chăm sửa soạn lễ vật dâng cúng, bày tỏ lòng biết ơn đối với thần Pô Klong Garai, Pô Inư Nưgar, Pô Rômê … - những người có công dẫn thủy nhập điền, mưa thuận gió hòa, giúp cho mùa màng của người Chăm bội thu. Trong không gian lễ hội, người dân nơi đây tin rằng họ có thể gặp gỡ thần linh, giao hòa cùng trời đất. Do đó, sự kiệnnày đã thu hút đông đảo đồng bào Chăm và du khách tham dự. Lễ hội Katêcũng là dịp để người Chăm tưởng nhớ ông bà, tổ tiên. Tại mỗi gia đình, họ đều chuẩn bị mâm cúng với đầy đủ vật phẩm trang trọng và thịnh soạn nhất.
Phần nghi lễ
Sáng sớm ngày đầu tiên của Lễ hội Katê, đại lễ diễn ra tại đền tháp Poklong Garai. Không gian quanh tháp như mở rộng ra bởi sự tham dự của hàng vạn người. Người Chăm hành hương trong Lễ hội Katê xếp thành hàng dài, ngay ngắn trên con đường đi lên đỉnh đồi mà ngôi tháp cổ tọa lạc. Họ mong muốn được dự lễ mở cửa tháp và dâng lên thần linh những sản vật mới thu hoạch của gia đình.
Khi những nghi lễ đầu tiên diễn ra tại tháp Poklong Garai thì tại làng Kuh Nhút, xã Phước Hà, một đoàn người rước y trang của thần linh khởi hành về hướng Lễ hội Katê. Đoàn rước lễ vật bao gồm các già làng, chức sắc cùng đông đảo bà con người Chăm và người Raglai. Đến quá trưa – khoảng 13 giờ, họ đã về đến Hữu Đức.
Vì sao lại có sự xuất hiện của người Raglai trong nghi lễ quan trọng của người Chăm? Theo các nhà nghiên cứu, người Chăm và người Raglai có mối quan hệ về tộc người. Nói về quan hệ xã hội, quan hệ tộc người, dân tộc Chăm có câu: “Chăm saai, Raglai aday”. Câu này có ý nghĩa là: Người Chăm là anh (hay chị) và người Raglai là em. Với vị thế là em út của người Chăm, người Raglai có vai trò quan trọng trong Lễ hội Katê. Mối quan hệ này đã chi phối mọi hoạt động văn hóa - xã hội của dân tộc Chăm. Người Chăm quan niệm, trang phục của vua chúa Chăm được dâng lên ở tất cả các đền tháp cổ đều do người Raglai bảo vệ. Các nghiên cứu cho biết, trang phục dành cho thần Poklong Garai do người Raglai ở Tà Dương lưu giữ và y trang của thần Pô Inư Nưgar ở Hữu Đức được người Raglai ở làng Kuh Nhút bảo quản.
Lễ hội Kate của đồng bào Chăm Ninh Thuận.
Đoàn người Raglai trang trọng mang y phục dâng thần linh từ trên núi về làng của người Chăm. Theo quan niệm truyền thống của dân tộc Chăm, nếu người Raglai không xuống cúng lễ thì họ không được phép mở cửa tháp để tiến hành các nghi thức của Lễ hội Katê. Điều này cho thấy, sự xuất hiện của người Raglai quyết định sự thành công của Lễ hội Katê.
Đến ngày thứ hai của lễ hội, đoàn người Chăm và Raglai mới tổ chức rước y trang lên tháp Poklong Garai. Thầy cả lễ vinh dự dẫn đầu đoàn rước y trang lên tháp. Ông khoác trên người áo choàng và đầu chít khăn, chúng đều mang màu trắng. Phía sau thày cả lễ là các vị chức sắc, thanh niên và trí thức Chăm. Các bộ lễ phục được đặt trên kiệu, có lộng che hai bên. Phía sau là các cô thôn nữ xinh đẹp trong trang phục áo dài Chăm truyền thống. Họ vừa đi vừa múa quạt vui vẻ rộn ràng. Tiếp đó là đoàn người Raglai múa và đánh mã la, thổi kèn bầu. Dưới bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân, mã la phát ra âm thanh dồn dập làm xao động tâm hồn người tham dự lễ hội. Với đồng bào Raglai, mã la là thứ tài sản quý giá, là nhạc cụ truyền thống luôn đồng hành với họ trong cuộc sống.
Thầy cả sư là người chủ trì nghi lễ cúng tạ ơn thần linh.Khi nhạc điệu của tiếng đàn Kanhi vang lên, cũng là lúc các vị cả sư rót rượu vào chén dâng lên những vị thần. Tiếp đó nghi lễ mặc y trang cho các vị thần được tiến hành. Giây phút long bào lộng lẫy khoác lên tượng thần được coi là thời khắc thiêng liêng nhất. Đây cũng là lúc nghệ nhân kéo đàn Kanhi say sưa cất tiếng hát. Ca từ và giai điệu da diết, khiến người nghe liên tưởng bài hát sẽ được gió mây mang đến các vị thần linh lời mời của dân làng, cầu mong các ngài hãy về bên tháp, lắng nghe những ước nguyện của họ. Xung quanh tháp, người dân trải chiếu rồi đặt mâm để bày lễ vật tế thần. Họ hy vọng, cuộc tiếp xúc thần linh tối cao của các chức sắc Balamon sẽ giúp họ đạt được ý nguyện của mình.
Màn múa bóng trình diễn các điệu múa để tiễn biệt các vị thần đã khép lại các nghi thức của Lễ hội Katê tại tháp Poklong Garai. Khi Lễ hội Katê kết thúc, y trang của các vị thần được người Chăm trao gửi người Raglai bảo quản, giữ gìn đến mùa lễ hội năm sau.
Nghi thức của Lễ hội Katê lan tỏa vào từng dòng tộc, gia đình. Khi các nghi lễ kết thúc ở tháp Poklong Garai trên đồi Trầu thì cũng là lúc các gia đình tổ chức các nghi lễ Katê. Mọi người phấn chấn trở về làng (Palei) của mình và tiếp tục cùng nhau vui Tết Katê do thôn, xã tổ chức. Tại gia đình, người Chăm chuẩn bị một mâm cúng ông bà tổ tiên.
Có thể thấy, các nghi thức Katê được người Chăm thực hiện theo một trình tự nhất định. Đầu tiên, họ thực hiện các nghi lễ cầu cúng trời đất, tiếp đó cúng tế thần linh và cuối cùng là ông bà tổ tiên. Đây là loại hình cấu trúc lưỡng hợp - âm dương … Tất cả những biểu tượng của tín ngưỡng phồn thực thể hiện ước nguyện sinh sôi nảy nở của con người, vật nuôi cây trồng, mùa màng tốt tươi. Đó là nét đặc trưng trong quan niệm tín ngưỡng mang nặng yếu tố nguyên hợp bản địa của người Chăm nói riêng và của cư dân nông nghiệp lúa nước nói chung.
Phần hội:
Trước khi diễn ra Lễ hội Katê, không khí náo nhiệt đã lan tỏa mọi đường làng ngõ xóm. Những hoạt động thể thao vui tươi luôn diễn sôi nổi ngay lúc y trang của thần linh được rước về đến làng. Sau phần lễ là phần hội kéo dài hết tuần. Trong thời gian lễ hội, hoa đăng đều được thắp sáng trên mọi ngả đường.
Tất cả những người tham gia lễ trước khi diễn ra Lễ hội Katê, không khí náo nhiệt đã lan tỏa mọi đường làng ngõ xóm. Những hoạt động thể thao vui tươi luôn diễn sôi nổi ngay lúc y trang của thần linh được rước về đến làng. Sau phần lễ là phần hội kéo dài hết tuần. Trong thời gian lễ hội, hoa đăng đều được thắp sáng trên mọi ngả đường.
Những điệu múa truyền thống được trình diễn tại Lễ hội.
Tất cả những người tham gia lễ hội đều cảm thấy phấn chấn trước khi bước vào một vụ mùa mới. Âm thanh vang vọng của các nhạc cụ dân tộc Chăm (trống Ginang, Baranưng và kèn Saranai) hòa quện với giọng hát của nam thanh, nữ tú… Trong các điệu hát tạ ơn thần linh, tổ tiên, các thiếu nữ Chăm thẹn thùng thả dáng cùng các điệu múa quạt, múa đội Thong hala (cỗ bồng trầu). Việc trình diễn những điệu múa này để cầu các vị thần ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và đời sống của người dân ấm no, hạnh phúc.
Sau khi kết thúc mọi nghi thức ở các đền tháp, người Chăm trở về ngôi làng của mình chuẩn bị cho phần hội trong ngày Tết Katê. Nếu như phần lễ được coi trọng ở đền tháp thì tại thôn bản mà người Chăm sinh sống, phần hội đóng vai trò quan trọng. Trong mỗi năm, một gia đình được cử đại diện làm mâm cúng tế thần linh và phần lộc thụ hưởng được chia đều cho các hộ gia đình.
Tiếp đó, người Chăm tổ chức các hội thi, hội diễn và tái hiện những trò chơi dân gian, chương trình văn nghệ thể dục thể thao sôi động. Trong ngày hội, du khách rất dễ bắt gặp hình ảnh đội chum nước rất duyên dáng, khéo léo của các cô gái Chăm trong cuộc thi để nhanh về đích. Ở khoảng sân rộng, nam thanh nữ tú Chăm thể hiện những bài dân ca, biểu diễn dân vũ. Họ say sưa ca hát, nhảy múa đến đêm khuya. Hội làng tan dần, mọi người hân hoan trở về mái ấm gia đình để họp mặt gia tiên. Trong không khí tưng bừng náo nhiệt của Lễ hội Katê, mọi khoảng cách giữa con người với nhau như bị xóa nhòa.
Người Chăm rất tự hào khi sở hữu một kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc và Lễ hội Katê là một minh chứng rõ nét nhất. Trong thời gian diễn ra lễ hội, mọi người lại có dịp thể hiện sự tri ân đối với tổ tiên, các bậc tiền bối đã có công tạo dựng và bảo vệ cuộc sống cho họ. Đây cũng là khoảng thời gian những thành viên trong gia đình vui Tết đoàn viên, đến thăm họ hàng, bè bạn. Những vất vả lo âu thường ngày đã tan biến, thay vào đó là niềm vui, sự thân thiện. Mọi người cùng nhau tận hưởng những giây phút bình an, hạnh phúc.
Đào Bình Trịnh