Hiện vật bảo tàng - cơ sở cho mọi hoạt động của bảo tàng

Có những vấn đề tưởng chừng “xưa như trái đất”, nhưng lại không hề lạc hậu, nhiều năm tháng qua đi, vẫn còn giữ nguyên giá trị. Có những chuyện cứ nghĩ rằng ai cũng biết, “biết rồi, khổ lắm nói mãi”; nhưng trên thực tế không phải ai cũng hiểu đầy đủ, đến nơi đến chốn; hoặc là hiểu, nhưng lại làm không đúng như đã hiểu.

Câu chuyện về hiện vật bảo tàng cũng như vậy, tuy không phải là mới, nhưng vẫn đang là vấn đề thời sự trong hoạt động của các bảo tàng nước ta và là một trong những nguyên nhân tác động trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của bảo tàng.

Trên thực tế, tuy có khá nhiều định nghĩa về hiện vật bảo tàng nhưng nhìn chung đều thống nhất rằng, hiện vật bảo tàng là bằng chứng vật chất về thiên nhiên, con người và môi trường sống của con người, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ, được bảo tàng sưu tầm, nghiên cứu, xác minh, hoàn thiện hồ sơ  khoa học và hồ sơ pháp lý cho hiện vật.

Hiện vật bảo tàng là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều loại hình, chất liệu và hình thức: hiện vật thể khối, tài liệu chữ viết, tác phẩm nghệ thuật, phim ảnh và băng ghi âm…

Một góc Bảo tàng Hà Nội. Ảnh: Báo Dân sinh.

Hiện vật là ngôn ngữ của bảo tàng, là cơ sở cho mọi hoạt động của bảo tàng, không có hiện vật thì không có bảo tàng, không có trưng bày bảo tàng và các hoạt động khác của bảo tàng. Hiện vật vừa là trung tâm, vừa là điểm xuất phát của bảo tàng. Vì vậy, để có hiện vật phù hợp với loại hình và yêu cầu cụ thể thì bảo tàng phải tiến hành công tác sưu tầm, tức là phải sử dụng tổng hợp tất cả các biện pháp để có được hiện vật, thông qua nhiều phương thức: khảo sát; điền dã; tổ chức các chuyến đi công tác; khai quật khảo cổ; tiếp nhận hiện vật hiến tặng từ các tổ chức, cá nhân; mua, trao đổi hiện vật…

Công tác sưu tầm là hoạt động thường xuyên, liên tục, không bao giờ ngừng cùng với quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của bảo tàng, là công việc khoa học cực kỳ quan trọng, nhằm xây dựng và làm giàu kho hiện vật bảo tàng. Trong giai đoạn đầu chuẩn bị xây dựng trưng bày, nhiệm vụ trọng tâm của công tác sưu tầm là đáp ứng yêu cầu hiện vật cho trưng bày bảo tàng. Sau khi trưng bày mở cửa, nhiệm vụ trọng tâm của công tác sưu tầm là xây dựng vốn hiện vật cho kho bảo quản.

Hiện vật bảo tàng càng phong phú, càng phù hợp với loại hình bảo tàng, càng được nghiên cứu, xác định khoa học một cách toàn diện, đầy đủ, cụ thể, kỹ lưỡng, chính xác bao nhiêu thì càng có điều kiện để rộng đường lựa chọn hiện vật phục vụ cho xây dựng trưng bày, đổi mới trưng bày, tổ chức triển lãm chuyên đề, triển lãm lưu động, phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, tuyên truyền-giáo dục, xuất bản… ở trong và ngoài bảo tàng. Trong thời đại của chúng ta, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, có thể cho phép sử dụng nhiều thành tựu hiện đại trong trưng bày bảo tàng; nhưng dù thế nào đi chăng nữa, điều đó vẫn không thể thay thế cho hiện vật. Ở các bảo tàng có trình độ khoa học cao, có truyền thống lâu năm, hiện vật đưa ra trưng bày, thông thường chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số hiện vật có trong kho.

Trong nhiều trường hợp, khi đánh giá về một bảo tàng, người ta dựa trên cơ sở đánh giá số lượng và chất lượng kho hiện vật làm một trong những tiêu chí quan trọng.

Hiện vật bảo tàng là tài sản quốc gia. Kho hiện vật của mỗi bảo tàng là một bộ phận hợp thành kho tàng di sản văn hóa quốc gia.

Từ nhận thức về hiện vật bảo tàng như đã nêu trên, chúng ta có thể nhận diện một số nội dung chính như sau:

Một là, hiện vật bảo tàng, trước hết phải là hiện vật gốc, được lấy ra từ cuộc sống của tự nhiên và xã hội, là bằng chứng xác thực, khách quan về một hiện tượng, một sự kiện nhất định của tự nhiên và xã hội, sống trong một không gian và thời gian nhất định, không thể làm lại, không thể tự sáng tạo ra theo ý chí chủ quan của con người. Mỗi hiện vật là một nhân chứng, một câu chuyện về một sự kiện, một hiện tượng của tự nhiên hoặc xã hội.

Một trong những hiện vật do gia đình Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười hiến tặng. Ảnh: Báo Dân sinh.

Hai là, hiện vật bảo tàng phải là hiện vật gốc, nhưng không phải bất cứ hiện vật gốc nào được lấy ra từ tự nhiên hoặc xã hội, được đưa về bảo tàng cũng đều trở thành hiện vật bảo tàng, mà chỉ có các hiện vật được chọn lọc kỹ lưỡng, có giá trị về nhiều mặt, hay một mặt về lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ - thuộc tính vốn có của hiện vật, tồn tại một cách khách quan và được làm sáng tỏ từng bước trong quá trình nghiên cứu, xác minh hiện vật.

Khi nói đến hiện vật bảo tàng, thì điều đó có nghĩa là phải nói tới cả 3 yếu tố hợp thành, có quan hệ mật thiết với nhau trong một thể thống nhất: Bản thân hiện vật - bằng chứng vật chất về sự kiện, hiện tượng nhất định của tự nhiên hoặc xã hội; các thông tin cần thiết liên quan tới hiện vật - hình thành hồ sơ khoa học về hiện vật, theo những yêu cầu, nguyên tắc, tiêu chí, phương pháp của bảo tàng học, quy định chung của luật pháp Việt Nam về di sản văn hóa, tính chất, đặc điểm loại hình của từng bảo tàng cụ thể và hồ sơ pháp lý về hiện vật - sự khẳng định và đảm bảo về mặt luật pháp đối với hiện vật bảo tàng trong việc quản lý, nghiên cứu, bảo vệ, bảo quản, khai thác, sử dụng, phát huy giá trị, theo những quy định của pháp luật Việt Nam và quốc tế.

Không có các thông tin về hiện vật được xác minh một cách khoa học, theo những tiêu chí và phương pháp nhất định, hình thành hồ sơ khoa học về hiện vật, thì nhiều khi hiện vật sẽ trở nên vô nghĩa, không thể sử dụng, phát huy giá trị trong công tác nghiên cứu khoa học, tuyên truyền - giáo dục khoa học, có thể dẫn đến những những nhận định, kết luận không chính xác về mặt khoa học và nhận thức không đúng của khách tham quan bảo tàng, làm giảm lòng tin của công chúng đối với bảo tàng. Thực tế trong hoạt động của bảo tàng Việt Nam những năm qua đã có không ít dẫn chứng về vấn đề này. Cùng từ một tài liệu, hiện vật được nhân sao, làm lại để trưng bày ở các bảo tàng khác nhau, nhưng việc thuyết minh, giải thích lại không thống nhất, mỗi nơi nói một cách, làm cho người thăm thắc mắc, nghi ngờ, hoặc là khi khách tham quan muốn tìm hiểu sâu về hiện vật thì không trả lời được. Điều đó chứng tỏ rằng thiếu sự nghiên cứu, xác minh, hiểu sâu các thông tin về hiện vật.

Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đến tháng 12-2016, cả nước có 154 bảo tàng, gồm: 123 bảo tàng công lập (4 bảo tàng quốc gia; 10 bảo tàng chuyên ngành trực thuộc bộ, ngành và tương đương; 26 bảo tàng chuyên ngành thuộc đợn vị trực thuộc bộ, ngành và tương đương; 83 bảo tàng cấp tỉnh) và 31 bảo tàng ngoài công lập. Các bảo tàng nước ta bảo quản gần 3.000.000 hiện vật. Ở đây chưa bàn đến số lượng hiện vật như đã nêu là nhiều hay ít, nhưng có một điều chắc chắn rằng có không ít hiện vật trong số đó, tuy được gọi là hiện vật bảo tàng, được bảo quản trong kho, nhưng còn thiếu rất nhiều tiêu chí, nhất là đối với hiện vật thuộc các bảo tàng ngoài công lập.

Hiện trạng này có thể được giải thích bởi nhiều nguyên nhân: Lịch sử bảo tàng Việt Nam còn khá non trẻ, có một thời kỳ dài, nhiều hiện vật được đưa ồ ạt về bảo tàng từ các cuộc triển lãm nhất thời, rất ít thông tin hoặc không có thông tin kèm theo hiện vật. Các hiện vật do bảo tàng trực tiếp tổ chức sưu tầm hoặc tiếp nhận từ việc hiến, tặng của các tổ chức, cá nhân, cũng chưa tuân thủ đày đủ các quy trình trong nghiên cứu, xác minh hiện vật, dẫn tới việc thiếu thông tin về hiện vật, không thể sử dụng được trong nghiên cứu và phát huy giá trị, hoặc là số lượng hiện vật tuy là nhiều, nhưng khi cần để trưng bày thì rất khó khăn vì thiếu sự hiểu biết cần thiết về hiện vật…

Ba là, sưu tầm; kiểm kê; nghiên cứu xác định khoa học hiện vật và bảo quản là các khâu công tác quan trọng, có quan hệ mật thiết với nhau trong hoạt động bảo tàng, khâu trước là tiền đề của khâu sau; khâu sau là kệ quả của khâu trước. Vì lẽ đó mà ở một số bảo tàng, trong cơ cấu tổ chức, người ta lập ra bộ phận gọi chung là “Bộ phận kho”, thực hiện liên hoàn, hệ thống các nhiệm vụ sưu tầm; kiểm kê, nghiên cứu, xác định khoa học hiện vật và bảo quản hiện vật.

Công tác nghiên cứu, xác minh, hình thành hồ sơ khoa học và hồ sơ pháp lý cho hiện vật phải là công việc mang tính khoa học, đòi hỏi phải tiến hành thường xuyên, là công việc hàng ngày của cán bộ bảo tàng.

Cùng với việc kiểm kê, nghiên cứu, xác định khoa học hiện vật, cần hết sức coi trọng việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc xác lập hệ thống dữ liệu, tra cứu, bảo quản hiện vật nhắm đáp ứng yêu cầu phục vụ các hoạt động của bảo tàng.

Bốn là, hiện vật bảo tàng bao giờ cũng gắn với một bảo tàng cụ thể, phù hợp với loại hình, chức năng, nhiệm vụ của bảo tàng đó. Có những hiện vật rất quý với bảo tàng này nhưng lại không phù hợp với bảo tàng khác. Điều đó chỉ ra rằng, việc sưu tầm hiện vật, xây dựng kho cơ sở của bảo tàng phải căn cứ vào loại hình bảo tàng, chức năng, nhiệm vụ của bảo tàng.

Năm là, khi hiện vật đã trở thành hiện vật bảo tàng thì hiện vật được bảo quản trong kho của bảo tàng, trở thành di sản văn hóa, là tài sản quốc gia, được sử dụng vì lợi ích của toàn xã hội, góp phần phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, góp phần sáng tạo những giá trị văn hóa mới, làm giàu kho tàng di sản văn hóa Việt Nam và mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế.

Đỗ Vũ

Top