Giải pháp quản lý lễ hội hiện nay

Quản lý lễ hội là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách. Càng cấp bách hơn khi sự “bùng nổ” của lễ hội trong những năm gần đây đã tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa, xã hội.

Xu hướng biến đổi của lễ hội truyền thống các dân tộc ít người trong hơn 20 năm mở cửa và cải cách kinh tế

Lễ hội hiện nay có xu hướng biến đổi mạnh mẽ, bên cạnh lễ hội cổ truyền đang bị tác động bởi nhiều yếu tố kinh tế xã hội đương đại nên biến đổi, còn xuất hiện việc tổ chức các sự kiện, festival  hiện đại. Vì vậy, khái niệm lễ hội cổ truyền chỉ là khái niệm tương đối vì hầu hết các thành tố, thậm chí cả chức năng của lễ hội cũng thay đổi.

Về thời gian tổ chức lễ hội: có hai xu hướng biến đổi. Một số lễ hội làng, lễ hội cổ truyền ở miền núi không kéo dài về thời gian. Trước ki, một Lễ hội Gầu Tào vùng người Hmông, một Lễ hội Roóng Poọc vùng người Giáy, Lễ hội Lồng Tồng (xuống đồng) vùng người Tày thường tổ chức từ 3 đến 5 ngày thì nay chỉ tổ chức trong nửa ngày hoặc kéo dài đến hai, ba ngày. Nhưng mặt khác có một số lễ hội cổ truyền kéo dài hàng tháng hoặc vài tháng trời như Hội Chùa Hương, Hội Bà Chúa Xứ, Hội Đền Hùng,...

Không gian lễ hội cũng mở rộng. Trước đây các hội làng chỉ được tổ chức ở một không gian nhất định trong làng và phạm vi, quy mô tổ chức cũng chỉ của làng. Nhưng hiện nay, do nhiều yếu tố (do quảng bá du lịch, do tâm lý muốn vượt trội của các nhà lãnh đạo địa phương,...) nên quy mô của các hội làng cũng được mở rộng cả về không gian và thời gian. Nhiều lễ hội không còn là lễ hội làng mà đang có xu hướng biến thành lễ hội vùng, thậm chí là lễ hội chung của huyện. Đối tượng người đến dự hội không chỉ là dân làng, không chỉ là một dân tộc mà là nhiều dân tộc, có cả du khách nước ngoài tham dự.

Lễ hội Gầu Tào ở Pha Long, huyện Mường Khương, Lào Cai trước đây chỉ là lễ hội của vùng Pha Long nhưng ngày nay đã trở thành lễ hội chung của người Hmông ở các huyện miền Đông tỉnh Lào Cai. Lễ hội Gầu Tào không chỉ thu hút người Hmông ở huyện Mường Khương, Bắc Hà ở Lào Cai mà còn thu hút người Hmông ở huyện Sín Mần, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang và cả cư dân người Hmông ở châu Vân Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc cũng như người Hmông ở vùng Thượng Lào và người Hmông phía Bắc Thái Lan về dự. Đối tượng người tham dự lễ hội càng ngày càng có xu hướng tăng nhanh. Năm 2000, Lễ hội Gầu Tào của người Hmông ở Pha Long chỉ có khoảng 500 người tham dự thì đến năm 2011 đã có hàng vạn người tham dự.

Lễ hội Chùa Hương là một trong những lễ hội lớn thu hút một lượng khách khổng lồ.

Lễ hội Chùa Hương đầu thế kỷ XXI thu hút được vài chục vạn người nhưng đến năm 2008 đã đón 1,3 triệu lượt khách và đến năm 2012 đón khoảng 2 triệu lượt khách. Một Lễ hội Roóng Poọc của người Giáy thôn Tả Van, huyện Sa Pa từ cuối thế kỷ XX trở về trước chỉ là hội làng, có vài trăm người tham dự nhưng đến nay đã trở thành lễ hội của cả vùng hạ huyện Sa Pa. Chủ nhân của lễ hội trước đây là người Giáy thì đến giờ bên cạnh người Giáy còn có cộng đồng người Hmông, Dao, Tày cùng tham gia tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí trong lễ hội.

Đặc biệt, sau khi được quảng bá trên các trang web du lịch thì Lễ hội Roóng Poọc đã trở thành điểm đến của hàng trăm du khách với nhiều quốc tịch khác nhau. Như vậy, quy mô của lễ hội ngày càng mở rộng cả về số lượng người tham gia đã gây sự quá tải về không gian tổ chức lễ hội. Các cánh đồng tổ chức lễ hội xuống đồng cổ xưa hay các ngọn đồi tổ chức Lễ hội Gầu Tào của thế kỷ XX cũng như sân đình làng ở vùng đồng bằng đều trở nên quá tải khi đón hàng vạn du khách tham dự. Từ sự quá tải này đã nảy sinh hàng loạt những vấn đề bức xúc về vệ sinh môi trường, sự chen lấn xô đẩy, quá tải các dịch vụ ăn, nghỉ, hành lễ, về cách điều hành tổ chức (ban tổ chức bất lực trong tổ chức các chương trình lễ hội),...

Chủ thể lễ hội: các lễ hội từ miền núi cho đến đồng bằng hiện nay đã có sự biến đổi về chủ thể tổ chức lễ hội. Trước đây trong các lễ hội làng cổ truyền, người dân thực sự là chủ thể của lễ hội. Cộng đồng người dân địa phương đều háo hức tập luyện hàng tháng trời để mong được tham gia gánh vác một việc nào đó, hoặc sắm một vai nào đó trong nhiệm vụ tổ chức lễ hội. Người được khiêng kiệu, rước lễ là một vinh dự cho cả phe, giáp, dòng họ. Các hội làng hầu hết do chủ làng và hội đồng quản lý của làng thực hiện. Nhưng hiện nay, hầu hết các lễ hội ở làng quê, miền núi đều do chính quyền các cấp chỉ đạo sát sao. Lễ hội ở miền núi dù là lễ hội của một làng hay lễ hội của một số gia đình nhưng đều có chủ tịch hoặc phó chủ tịch xã đứng ra khai mạc, đọc diễn văn. Nhiều lễ hội đồng bằng, ban tổ chức thuê các công ty sự kiện, các đoàn nghệ thuật đứng ra dàn dựng chương trình, đứng ra làm dịch vụ tổ chức. Người dân, chủ thể của lễ hội, bị “gạt ra rìa” và chỉ đóng vai trò thụ động như các du khách. Thậm chí có tỉnh tổ chức festival nhưng từ việc trang trí khánh tiết, biểu diễn nghệ thuật, tổ chức các hoạt động đều không cần sự tham gia của ngành văn hóa, thể thao. Hoặc nếu ngành văn hóa được tham gia thì cũng với tư cách đi làm thuê cho các công ty sự kiện. Như vậy, vai trò của cộng đồng địa phương, vai trò của người dân – chủ thể sáng tạo của lễ hội cổ truyền, đã bị đánh mất.

Lễ hội cổ truyền đang có xu hướng biến đổi cả về mục đích, chức năng và cấu trúc. Mục đích của các hội làng là cầu người yên vật thịnh, lễ hội được tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh, nhu cầu vui chơi, giải trí của người dân trong thời điểm nông nhàn. Nhưng hiện nay, do tác động của cơ chế thị trường, lễ hội lại có mục đích quảng cáo cho các thành thị và địa phương, hoặc là nơi cầu may rủi, cầu lợi lộc cho cá nhân, cầu thăng quan tiến chức,... Biến đổi của lễ hội còn thể hiện ở sự nghèo nàn, đơn điệu trong các hình thức giải trí nhưng lại cực đoan, “nở rộ” trong các hình thức tín ngưỡng, mê tín. Quan hệ giữa ban tổ chức lễ hội và du khách thập phương là quan hệ dịch vụ, tận thu được nhiều nguồn tiền, dẫn đến tình trạng “chặt chém” ở các dịch vụ ăn nghỉ.

Lễ hội hiện nay có phổ biến được xem xét dưới góc độ cấu trúc. Lễ hội có hai phần: phần lễ và phần hội (dẫu sao cách xem xét dưới góc độ cấu trúc như vậy chưa hẳn thỏa đáng vì bản chất phần hội cũng đan xen, hướng theo phần lễ). Theo GS.TS  Ngô Đức Thịnh: “Tính tổng thể của lễ hội không phải là thực thể “chia đôi” như người ta đã quan niệm, mà nó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng văn hóa phát sinh để tạo nên một tổng thể lễ hội... Không có một loại lễ hội nào mà không có nghi lễ giữ vai trò gốc rễ”. Nhưng hiện nay, xuất hiện rất nhiều hình thức mít – tinh kỷ niệm không có “phần hội”, không có sự tham gia của cộng đồng mà chỉ là sự kiện của chính quyền cũng gọi là lễ hội. Hoặc có sự kiện chỉ mang tính hội hè nhằm quảng bá tới du khách, người mua hàng mà vẫn gọi là lễ hội... Như vậy, cấu trúc của lễ hội cũng biến dạng.

Lễ hội chùa Bái Đính.

Các giải pháp quản lý lễ hội

Trước thực trạng các xu hướng biến đổi của lễ hội đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay, xuất hiện hai luồng dư luận trái chiều. Một số cơ quan thông tin đại chúng cho rằng việc tổ chức và quản lý lễ hội vô cùng lộn xộn, mất bản sắc văn hóa dân tộc, gây ra nhiều hậu quả tai hại và đề xuất các biện pháp mang tính hành chính như “cấm”, “bỏ”. Thậm chí có người chưa hiểu rõ xu hướng biến đổi của lễ hội là một yêu cầu khách quan khi chuyển sang cơ chế thị trường nên sốt ruột đề ra các giải pháp mang tính chất chữa cháy là chính. Hoặc cũng có khuynh hướng coi nhẹ vai trò quản lý nhà nước, cần để cho người dân tự do làm chủ, tự do tổ chức lễ hội. Cả hai luồng dư luận như vậy đều không đánh giá đúng thực tế. Từ kinh nghiệm tổ chức và quản lý lễ hội ở các tỉnh, chúng tôi đề xuất một số giải pháp như sau:

Về quan điểm: Cần nhận thức sự biến đổi của lễ hội cổ truyền cũng như xuất hiện nhiều loại hình tổ chức sự kiện mới là một yếu tố khách quan trong đời sống văn hóa hiện nay. Vì thế không nên có quan điểm cứng nhắc, lấy các nguyên lý tổ chức lễ hội truyền thống làm khuôn mẫu cho việc tổ chức các lễ hội, tổ chức các sự kiện như hiện tại. Ở lĩnh vực này cần bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn trên cơ sở lý luận về quản lý văn hóa. Trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò chủ thể của cộng đồng người dân tổ chức lễ hội. Người dân phải được tham gia các quá trình tổ chức lễ hội, phải được trao quyền tổ chức lễ hội hiệu quả. Đồng thời cũng không coi nhẹ việc quản lý của nhà nước đối với lễ hội.

Xây dựng mô hình tổ chức quản lý các lễ hội truyền thống hiệu quả

Hiện nay, có nhiều nhà khoa học cho rằng nên trả lại lễ hội cho dân? Vậy có cần tổ chức lễ hội không? Các mô hình quản lý như thế nào? PGS Từ Thị Loan (2012) đưa ra một số mô hình, chúng tôi đề xuất một số vấn đề cụ thể như sau:

- Mô hình quản lý, và tổ chức lễ hội do cộng đồng tự quản, có sự giám sát của nhà nước ở cơ sở.

Đây là mô hình quản lý và tổ chức lễ hội bước đầu có sự tham gia của nhà nước. Chủ thể tổ chức của các lễ hội này nhất thiết phải là người dân trong cộng đồng. Vai trò quản lý của nhà nước thể hiện ở chỗ: giám sát và chỉ đạo, giải quyết kịp thời những vướng mắc xảy ra. Mặt khác, vai trò quản lý nhà nước cũng cần được phân cấp dần tới cộng đồng và thể chế hóa bằng hệ thống hương ước, quy ước chung của làng. Thậm chí, có thể sử dụng và phát huy vai trò của già làng, trưởng bản hoặc người có uy tín trong dòng họ, cộng đồng. Đồng thời, vai trò của quản lý của nhà nước cũng thể hiện ở chỗ thường xuyên giám sát, theo dõi diễn biến của các lễ hội để nắm bắt những thay đổi trong đời sống tín ngưỡng của đồng bào để đảm bảo không có hiện tượng lợi dụng tín ngưỡng để thực hiện hình thức mê tín dị đoan hoặc xuyên tạc, truyền bá phản cách mạng. Đồng thời vai trò của nhà nước cũng thể hiện ở việc đảm bản trật tự, an ninh xã hội trong thời gian tổ chức lễ hội. Kinh phí tổ chức những lễ hội này hoàn toàn do nhân dân đóng góp.

- Mô hình kết hợp vai trò tự quản của cộng đồng với sự giúp đỡ của nhà nước

Đối với một số lễ hội của làng, liên làng có quy mô ngày càng mở rộng và đang được nâng lên thành các lễ hội để phục vụ du lịch. Ở một số địa phương, cần có xây dựng mô hình phối hợp chặt chẽ giữa vai trò của cộng đồng với vai trò quản lý của nhà nước.

Trong mô hình này, các hoạt động lễ và hội vẫn do cộng đồng quyết định và thực hiện là chính, tuy nhiên, đã có sự chỉ đạo, định hướng và tham gia của các ban, ngành chính quyền và đoàn thể. Kinh phí tổ chức lễ hội cũng được Nhà nước tài trợ một phần. Vai trò của nhà nước thể hiện rõ trong vấn đề đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn thực phẩm…

- Mô hình quản lý, tổ chức lễ hội có sự chỉ đạo chặt chẽ của nhà nước

Hiện nay, nhiều sự kiện văn hóa tổ chức theo quy mô lễ hội như lễ hội quảng bá sản phẩm, lễ kỷ niệm, năm du lịch quốc gia… Các lễ hội này đều có Ban tổ chức do lãnh đạo chính quyền (tỉnh, huyện, thành phố…) làm trưởng ban. Cả bộ máy chính quyền tổ chức lễ hội từ khâu kịch bản, luyện tập, dàn dựng, khai hội, màn bế mạc… Loại hình này tổ chức có vẻ hoành tráng, nhưng người dân ít được tham gia hoặc tham gia với vai trò thụ động, có “lễ” mà không thành “hội”.

Lễ hội Đền Hùng 2016

Về đào tạo nguồn nhân lực tổ chức, quản lý lễ hội

Vấn đề tổ chức các sự kiện, các lễ hội hiện nay là vấn đề rất quan trọng. Nhưng thực trạng ở các tỉnh hiện nay, từ cấp cơ sở lên đến tỉnh (cả Bộ VHTTDL) đều rất thiếu đội ngũ cán bộ có khả năng về quản lý, chỉ đạo và trực tiếp tổ chức các sự kiện, các lễ hội. Chương trình tổ chức lễ hội chưa được giảng dạy thành một ngành học trong hệ thống trường cao đẳng cộng đồng, trường cao đẳng sư phạm và trường trung cấp văn hóa nghệ thuật. Ngay số cán bộ am hiểu về việc tổ chức lễ hội ở ngành VHTTDL rất ít. Hầu như hiện nay chưa có ai là chuyên gia về vấn đề này. Chỉ có một vài người có kinh nghiệm và khả năng tổ chức của ngành. Lớp trẻ chưa được đào tạo qua trường lớp và thực tiễn.

Vì vậy, một nhiệm vụ cấp bách đối với ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch là phải tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều cấp độ khác nhau:

Ở cấp tỉnh: Lựa chọn một vài cán bộ có khả năng cử đi học ở các viện nghiên cứu, các trường đại học, các công ty tổ chức sự kiện lớn. Nội dung học theo hai chuyên ngành cụ thể. Chuyên ngành thứ nhất là về Quản lý lễ hội (chuyên ngành này yêu cầu các chuyên viên phải có khả năng độc lập nghiên cứu, chỉ đạo thực tiễn, có khả năng tham khảo kinh nghiệm ở một số nước và ở các địa phương vận dụng vào thực tiễn, có khả năng tham mưu xây dựng các văn bản mang tính chất quản lý mang đặc thù). Chuyên ngành thứ hai là đào tạo các tác giả có khả năng viết kịch bản lễ hội, xây dựng chương trình, đề án lễ hội hoặc đào tạo ra các tổng đạo diễn tổ chức các sự kiện, đào tạo một số nhạc sĩ, biên đạo, họa sĩ có khả năng sáng tác nhạc, sáng tác múa, sáng tác các logo trang trí lễ hội... Đây là nhiệm vụ khó khăn, hiện nay trừ một vài thành phố đào tạo được vài cán bộ như vậy, còn hầu hết các tỉnh chưa đào tạo được đội ngũ này. Những người này là những người có năng khiếu về quản lý, về thực hành nghệ thuật, sáng tạo nghệ thuật. Cho nên bước đầu cần lựa chọn ở các đoàn nghệ thuật, các trung tâm văn hóa, các tác giả có năng khiếu cử đi học nâng cao trình độ. Thậm chí có thể bố trí họ học việc, làm trợ lý cho các chuyên gia quản lý, tổ chức lễ hội ở các thành phố, các công ty sự kiện lớn.

Ở cấp huyện cần tăng cường đào tạo, tập huấn cho đội ngũ quản lý lễ hội ở phòng văn hóa - thông tin. Kiến thức quản lý lễ hội là kiến thức tổng hợp. Xu hướng biến đổi lễ hội là xu hướng thường xuyên, tất yếu, vì vậy các cán bộ quản lý cũng cần được tập huấn, cập nhật thường xuyên. Mặt khác, ở các trung tâm văn hóa các huyện cần đào tạo các biên dạo múa, các diễn viên có khả năng làm MC (dẫn chương trình). Đội ngũ này cũng cần phải lựa chọn những người có năng khiếu từ cơ sở gửi đi đào tạo ở các trường đại học, các trung tâm tổ chức sự kiện để học tập.

Ở cấp xã, phường: Cần tập huấn các nguyên tắc, quy chế, các kiến thức chuyên môn về quản lý lễ hội cho cán bộ chuyên trách ban văn hóa xã phường và các cán bộ đoàn thể. Ở đây cũng cần bồi dưỡng, tập huấn những người có khả năng làm MC, tổ chức các sự kiện, trang trí, sử dụng âm thanh, ánh sáng phù hợp... Tuy nhiên, ở cấp xã phường cần đặc biệt chú ý đến đội ngũ già làng, nghệ nhân dân gian, những thầy cúng am hiểu về lễ hội cổ truyền. Vận động những người này truyền dạy cho lớp trẻ trong cộng đồng. Việc truyền dạy cũng cần phải có chế độ đối với người truyền dạy và học trò. Nhưng quan trọng nhất là phải chọn những người có phẩm chất, tâm huyết với văn hóa của dân tộc mình. Bài học thực tiễn ở các xã vùng cao chỉ rõ nhiều nơi lễ hội cổ truyền bị biến mất hoặc biến dạng là do thiếu đội ngũ nghệ nhân dân gian, thầy cúng am hiểu các nghi lễ về lễ hội này. Do đó, việc đào tạo nghệ nhân, thầy cúng là việc làm cấp bách. Nhưng quá trình đào tạo những người này lại là quá trình tự học, tự đào tạo, nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ bằng chế độ, bằng chính sách cụ thể.

TS Trần Hữu Sơn

Top