Đình Phù Lưu

Làng Phù Lưu xưa có tên Nôm là “Chờ Lá”, vào cuối Thời Nguyễn đổi thành xã Phù Lưu, tổng Nội Trà, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; nay là thôn Phù Lưu, xã Trung Nghĩa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Phù Lưu vốn là một trong 7 làng Chờ (Chờ Cả-Phú Mẫn, Chờ Ngô Nội, Chờ Nghiêm Xá, Chờ Trung Bạn, Chờ Ngân Cầu, Chờ Tiên Trà) trên vùng đất cổ Yên Phong. Nơi đây còn tồn tại di tích đình, đền, chùa đã được xếp hạng Di tích Lịch sử văn hóa, trong đó có đình Phù Lưu.

Đình Phù Lưu là ngôi đình cổ có diện tích 426,7m2, được xây dựng vào cuối thế kỷ XVI. Đến Thời Nguyễn ngôi đình được trùng tu mở rộng và có quy mô lớn và nhiều hạng mục công trình như: Tam quan, tiền tế, đại đình, hai toà dải vũ. Tiếc rằng trong thời kỳ chống Pháp, tam quan, tiền tế và hai toà dải vũ của đình được tiêu thổ để đáp ứng yêu cầu của cách mạng, chỉ có giữ được toà đại đình cho đến nay.

Căn cứ vào bản thần tích và 6 đạo sắc phong hiện còn bảo lưu được tại đình đã cho biết rõ, đình Phù Lưu thờ nhị vị “Thánh Tam Giang” là những danh tướng thời Triệu Quang Phục, có công đánh đuổi quân xâm lược Nhà Lương vào thế kỷ thứ VI. Sau khi mất, các ngài lại hiển ứng linh thiêng âm phù giúp quân dân Đại Việt đánh thắng 30 vạn quân Tống xâm lược trên chiến tuyến Như Nguyệt vào năm 1077. Các danh tướng họ Trương sống là anh hùng đánh giặc, chết làm trung nghĩa linh thần, đã đi vào tâm linh tín ngưỡng của nhân dân và được trên 370 làng (xã) ở vùng Bắc Ninh-Kinh Bắc tôn thờ làm thành hoàng làng, các triều vua thời phong kiến đều có sắc phong, chuẩn cho nhân dân phụng thờ dài lâu.

Giá trị nổi bật của đình Phù Lưu là kiến trúc điêu khắc. Đình nằm trên một bãi đất cao ngay đầu làng, có cấu trúc kiểu chữ “đinh”. Đại đình gồm bảy gian, hai chái, hai dĩ. Gian giữa rộng 4m, sáu gian bên mỗi gian rộng 3,65m, hai gian chái mỗi gian rộng 1,5m, hai dĩ mỗi dĩ rộng 1,1m. Kết cấu gồm sáu vì gồm 70 cột lớn nhỏ. Mái lợp ngói mũi hài, bờ dải gắn gạch hộp hoa chanh, bốn đầu đao uốn cong thanh thoát. Hầu hết các đầu dư, cốn, ván nong, cửa võng... đều được chạm trổ. Phần nền móng vỉa bằng đá tảng. Bộ khung chịu lực gồm 6 bộ vì kèo kết cấu theo kiểu thức con chồng giá chiêng, tiền bẩy hậu bẩy. Trên các cấu kiện gỗ ở đình Phù Lưu tập trung chủ yếu ở các bức cốn, đầu dư, đầu bẩy, con rường đều được chạm khắc trang trí “tứ linh, tứ quý”, hoa lá cách điệu, mây xoắn, mây lưỡi mác…

Nổi bật nhất là đề tài “tứ linh, tứ quý” trang trí trên các bức cốn ở hai bộ vì gian giữa đình được tạo tác bằng kỹ thuật chạm nổi, chạm lộng và chạm bong kênh mang phong cách nghệ thuật Thời Hậu Lê thế kỷ XVII. Đặc sắc nhất là những mảng chạm ở các bức cốn của hai vì gian giữa. Cốn ở đây được chạm khắc ở cả hai mặt, phía trong lòng giếng là đề tài “tứ linh” với nét chủ thể là con rồng to lớn đang uốn mình trong những cụm mây mác. Đầu rồng nổi bật nhô ra khỏi mặt phẳng, bờm râu nét mác dựng đứng, miệng há rộng trong tư thế cuốn thuỷ, trong dòng nước nhìn rõ con cá chép đang cuốn theo. Trên cùng của cốn, phần ván nong gần sát mái được chạm hình con chim phượng trong tư thế đang bay, phượng có mỏ vẹt, mào, râu, tóc là những mũi mác, cánh phượng xoè rộng được cách điệu thành những vân mây mềm mại uyển chuyển. Bên dưới là hình lân, long mã, rùa đang nô đùa trên sóng nước, vân mây, tạo thành một bức tranh vô cùng sống động. Mặt ngoài của cốn được chạm đề tài “tứ quý” với nét chủ thể là hoa mai, xung quanh là tùng, cúc, trúc vấn vít với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Tuy cùng là đề tài “Tứ linh, tứ quý” nhưng mỗi bức chạm ở đình Phù Lưu lại có sự khác biệt, tạo cho không gian kiến trúc của ngôi đình rất phong phú, đa dạng chứ không đơn điệu nhàm chán. Bên cạnh phần trang trí trên kiến trúc còn là phần trang trí chạm khắc trên bức cửa võng, án thờ, hoành phi, câu đối, bộ siêu đao bát bửu…, không những thể hiện được sự tài hoa khéo léo của các nghệ nhân làm đình khi xưa mà còn làm cho không gian của ngôi đình thêm uy nghi lộng lẫy.

Đình Phù Lưu còn bảo lưu nhiều hiện vật cổ có giá trị như: tấm bia đá tứ diện “Hậu thần bi kí” dựng ở phía bên tay trái đình khắc năm Chính Hoà 15 (1694); 5 đạo sắc phong của Triều Tây Sơn và Triều Nguyễn ban tặng vào các năm: Quang Trung 5 (1792) - 2 đạo, Duy Tân 3 (1909) - 1 đạo, Khải Định 9 (1924) - 2 đạo; 1 bản thần tích chữ Hán “Trương tôn thần sự tích” ghi chép về sự tích gia đình thánh Tam Giang. Cùng hệ thống hoành phi, câu đối khá phong phú đa dạng, nội dung ca ngợi công đức các vị thần được thờ ở đình. Nổi bật, tại gian giữa đình treo bức đại tự khắc nổi dòng chữ Hán “Trung nghĩa dân” do Vua Lê Hiển Tông ban thưởng vào năm Cảnh Hưng 5 (1744). Ba chữ vàng này thể hiện tinh thần trung nghĩa và quyết tâm của người dân Phù Lưu trong việc bảo vệ sự bình yên cho xóm làng trước sự tàn phá do nạn giặc cướp hoành hành vào cuối thời Lê.

Ngoài ra còn nhiều đồ thờ tự có giá trị cao như ngai thờ, bài vị, hương án, long đình, bát bửu, nồi hương gốm, sứ… mang phong cách nghệ thuật Thời Nguyễn. Đặc biệt tại đình có 4 bức tranh hạc, trong đó 2 bức có voi chầu, 2 bức có 5 ông quan võ đứng chầu 2 bên. Nét vẽ tinh tế, tương truyền các bức tranh này đã có từ lâu đời.

Lễ hội truyền thống của đình Phù Lưu được tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng Âm lịch hàng năm. Trong những ngày hội, bên cạnh những nghi thức tế Thánh trang nghiêm là phần hội với nhiều trò chơi dân gian như: Đấu vật, cờ người, chọi gà, hát chèo, hát trống quân, đặc biệt có tục “kéo chài đốt pháo’ rất độc đáo” … đã thu hút đông đảo nhân dân địa phương hướng về cội nguồn, củng cố tình đoàn kết làng xã và tham gia vào những sinh hoạt văn hoá văn nghệ vui tươi lành mạnh, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc.

Năm 2012, đình Phù Lưu đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp quốc gia.

Thu Thủy