Chuyện về Nam Phương Hoàng Hậu
Bà tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh ngày 14-12-1914, tại Gò Công, tỉnh Tiền Giang, trong một gia đình giàu có vào bậc nhất Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Mặc dù quê ở Tiền Giang nhưng Nguyễn Hữu Thị Lan mang quốc tịch Pháp với tên Pháp là Mariette Jeanne, sống và học tại Sài Gòn. Năm 12 tuổi, Thị Lan được gửi sang Pháp học trường nữ sinh danh tiếng tại Paris. Tháng 9-1932, sau khi tốt nghiệp tú tài toàn phần, Nguyễn Hữu Thị Lan về nước.
Chân dung Nam Phương Hoàng hậu.
Chuyện kể rằng, hơn một năm sau khi về nước, với sự bố trí của Toàn quyền Pháp Pasquier và Đốc lý Đà Lạt, Nguyễn Hữu Thị Lan gặp Vua Bảo Đại tại Đà Lạt. Cuộc gặp với Nguyễn Hữu Thị Lan đã để lại cho Bảo Đại một ấn tượng rất sâu sắc. Sau này Bảo Đại đã nhớ lại: Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê. Tuy nhiên, vì Nguyễn Hữu Thị Lan theo Công giáo nên cuộc hôn nhân đã gặp nhiều phản đối của Hoàng tộc Triều Nguyễn. Hơn nữa, khi Vua Bảo Đại ngỏ ý lấy Nguyễn Hữu Thị Lan làm vợ, Bà đã đưa ra bốn điều kiện sau:
1. Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng hậu Chánh cung sau ngày cưới;
2. Được giữ nguyên đạo Công giáo và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo giáo luật Công giáo và giữ đạo;
3. Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo;
4. Phải được Tòa Thánh cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác nhau.
Vua Bảo Đại nói: Trẫm cưới vợ cho Trẫm chứ không phải cưới vợ cho Triều đình nên hôn lễ đã được tổ chức tại Huế ngày 20 tháng 3 năm 1934, khi đó Vua Bảo Đại 21 tuổi, Nguyễn Hữu Thị Lan 20 tuổi... Hơn nữa, ngay sau ngày cưới Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng hậu rất trọng thể tại điện Dưỡng Tâm với tước vị Nam Phương Hoàng hậu. Đây là một biệt lệ (vì 12 đời Tiên đế nhà Nguyễn trước các bà Chánh cung chỉ được phong tước Hoàng Quý phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng hậu). Bảo Đại đã chọn tên trị vì cho Hoàng hậu và còn giải thích thêm về tên Hoàng hậu Nam Phương nghĩa là hương thơm của miền Nam. Vua còn ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà Nam Phương được phục sức màu vàng là màu chỉ dành riêng cho Hoàng đế.
Nói về cuộc hôn nhân giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan, Đổng lý ngự tiền Văn phòng của Bảo Đại Phạm Khắc Hòe trong cuốn hồi ký “Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc” đã viết rằng: Cuộc kết hôn này lý trí nặng hơn tình cảm. “Cô Lan lấy Bảo Đại chủ yếu là để lên ngôi Hoàng hậu. Bảo Đại lấy cô Lan chủ yếu là để đào mỏ. Về mặt tình cảm nếu có thì cũng chỉ là bề ngoài, hai người đều mạnh khỏe, yêu thể thao và quen sống lối phương Tây. Còn về tính tình tâm tư thì hầu như trái ngược nhau. Bảo Đại nông cạn, ngây thơ, nhu nhược, thích ăn chơi hơn là quyền bính. Ông ta có thể phục thiện nhưng rất dễ bị bọn cơ hội lợi dụng. Trái lại Nam Phương là người kín đáo, trầm tĩnh, sâu sắc, có cá tính, có đầu óc suy nghĩ, thích đọc sách, nghiên cứu hơn là ăn chơi, thích uy quyền và có nhiều tham vọng chính trị… Tham vọng của Nam Phương là khi có con trai sẽ phong làm Thái tử để nối ngôi và quyền bính sẽ do bà Thái hậu Nam Phương nắm giữ. Sau này có người hỏi bà Nam Phương tại sao bà lại lấy một ông vua không có đạo, lại ăn chơi trác táng, rồi sau đó còn năm thê bảy thiếp… Bà trả lời “Việc này do Chúa định, tôi biết nói làm sao được”.
Nam Phương hoàng hậu được biết đến như một biểu tượng nhan sắc của Việt Nam.
Thời gian làm Hoàng hậu của bà Nam Phương chỉ kéo dài hơn 10 năm, kể từ năm 1934 đến năm 1945 khi Vua Bảo Đại buộc phải thoái vị do cuộc Cách mạng tháng Tám lịch sử. Ngày 30 tháng 8 năm 1945, trong tuyên bố thoái vị, Vua Bảo Đại nói: Trẫm muốn được làm dân một nước tự do, hơn làm vua một nước nô lệ. Đây cũng là dấu mốc chấm dứt tham vọng chính trị của Nam Phương và bà phải sống một cuộc đời xa xứ, cô đơn lạnh lẽo cho đến cuối đời.
Trong khí thế cách mạng của toàn dân quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng, tại Huế, Hoàng hậu Nam Phương đã thể hiện tinh thần yêu nước của mình. Ngày 17 tháng 9 năm 1945, Bà là người đầu tiên đến nơi Mặt trận Việt Minh tổ chức “Tuần lễ vàng” tại Huế, tự nguyện tháo hết trang sức bằng vàng mang trên người hiến tặng cho cách mạng. Tại đây, Bà được gắn một huy hiệu in cờ đỏ sao vàng. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, bà Nam Phương đã viết một thông điệp gửi cho bạn bè Á châu đề nghị họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lược của Pháp. Thông điệp đó được Nhà sử học Pháp Jean Renaud ghi lại trong một cuốn sách do Nhà Xuất bản Guy Boussac ấn hành tại Pháp năm 1949. Bà viết: “Kể từ tháng 3 năm 1945 nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp. Nhưng vì lòng tham của thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mảnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động này của thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi. Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các Chính phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào chúng tôi”.
Chúng ta biết Bảo Đại - chồng bà sau khi thoái vị được mời làm “cố vấn tối cao của Chính phủ lâm thời Việt Nam” và được là đại biểu Quốc hội đầu tiên năm 1946. Tuy nhiên tháng 3 năm 1946, Bảo Đại tham gia phái đoàn của Chính phủ Việt Nam DCCH sang Trung Hoa, sau đó đã không trở về mà sống tại Hồng Kông và cũng từ chức “Cố vấn tối cao trong Chính phủ.
Ngày 1 tháng 1 năm 1947, Nam Phương Hoàng hậu cùng các con rời Việt Nam sang Pháp. Ở đây Bà được nhận một khối tài sản lớn do cha đẻ của mình trao cho. Đó là một chung cư lớn tại Neuilly và một chung cư tai Đại lộ Opera, ngoài ra còn nhiều nhà đất ở Côngô, Marốc… Tất cả Bà chia cho các con, chỉ giữ lại một trang trại ở Chabrignac gồm 160 mẫu đất với một đàn bò gần 100 con bò và một vườn hồng lúc nào cũng nở hoa. Điều đó thể hiện cách sống của Bà khi chồng mình- Bảo Đại đã có tuổi mà vẫn mải miết ăn chơi, Bà muốn những năm tháng cuối đời được sống thanh thản. Cao hơn thế, Bà muốn giữ mãi là một phụ nữ Việt Nam được sinh ra trong một gia đình nề nếp, một tín đồ nghiêm khắc của đạo Công giáo.
Từ năm 1949 khi Bảo Đại về Việt Nam ngồi ghế “Quốc trưởng”, bà Nam Phương một mình vẫn ở lại Pháp, thỉnh thoảng Bảo Đại về thăm. Tuy nhiên, từ sau năm 1955, khi các con của họ đã lớn, mỗi người đi làm một nơi thì bà Nam Phương rời lâu đài ở Cannes trở về sống trong một lâu đài ở Chabrignac, thuộc tỉnh Correze, cách Paris khoảng 500 km. Có lần Bà ngỏ ý muốn trở về Việt Nam để được chết và an táng bên cạnh hai mộ thân sinh và thân mẫu ở Đà Lạt nhưng Bảo Đại và các con của Bà phản đối.
Vẻ đẹp phúc hậu của Nam Phương Hoàng hậu.
Buồn nản vì tình cảnh của mình, bà Nam Phương sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Cựu Hoàng đế Bảo Đại về thăm Bà được mấy lần. Thỉnh thoảng Bà mới về thăm Paris vài ngày, trong khi các con của Bà chỉ có dịp hè mới về thăm mẹ. Bà bị bệnh tim nặng. Và vào ngày 14 tháng 9 năm 1963, Bà bị cảm lạnh, sốt cao, khó thở, bác sỹ không đến kịp nên Bà đã ra đi vào lúc 5 giờ chiều, khi vừa tròn 49 tuổi. Lúc lâm chung, các con thì ở xa, Bảo Đại sống ở miền Nam nước Pháp, bên cạnh bà Nam Phương chỉ có hai người giúp việc.
Khi được tin vợ tạ thế, Bảo Đại đã trở về ngay và đã mua một chiếc quan tài bằng gỗ sồi, loại gỗ quý gia nhất của người Pháp để an táng cho Bà. Đám tang bà Nam Phương được tổ chức theo nghi thức đạo Công giáo rất đơn giản, chỉ có các hoàng tử, công chúa và một ít bạn bè thân thiết, trong đó có Công chúa Như Lý, con gái Vua Hàm Nghi sống ở Pháp lúc đó đến dự. Linh cữu Hoàng hậu Nam Phương được an táng tại nghĩa trang Công giáo ở Chabrignac.
Ngày nay, khi đến thăm các dinh của Bảo Đại, chúng ta thường thấy hình ảnh của bà Nam Phương Hoàng hậu. Nhìn hình ảnh Bà chúng ta nhớ về số phận một con người đã thật sự hạnh phúc và sung sướng cả về vật chất cũng như danh vọng lúc còn trẻ, nhưng cuối đời lại ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo nơi xứ người ở tuổi còn khá trẻ. Tuy nhiên với vẻ đẹp phúc hậu và tấm lòng nhân từ của mình, Bà ra đi đã 55 năm nhưng cuộc đời Bà chắc chắn sẽ còn được người đời nhắc tới.
Việt Hải