Chỉ Việt Nam có Đền Thần Đồng cổ
Lịch sử đền thần Đồng Cổ được các thư tịch của ta ghi lại khá đầy đủ. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: năm Mậu Thìn (1028) Tiên đế Lý Thái Tổ băng hà, Thái tử Phật Mã lên ngôi, tức là Vua Lý Thái Tông (1028-1054), nhân việc mới lên ngôi Ngài xuống chiếu phong tước Vương cho thần núi Đồng Cổ. Trước đó là việc trước khi Ba vương định làm phản cướp ngôi, Vua chiêm bao thấy một người tự xưng là thần núi Đồng Cổ nói với Vua về việc Ba vương: Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh sắp làm loạn, phải mau đem quân dẹp ngay. Tỉnh dậy Vua liền sai phòng bị, quả nhiên ứng nghiệm, cuộc biến đã được dẹp. Đến đây xuống chiếu giao cho Hữu ty tu sửa lại đền, lấy ngày ấy đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo trước thần vị, đọc lời thề rằng: Làm con bất hiếu làm tôi bất trung xin thần minh giết chết. Các quan từ cửa Đông đi vào đến trước thần vị cùng uống máu ăn thề, hàng năm lấy làm lệ thường, sau chuyển sang ngày 4 tháng 4 Âm lịch. Sang đời Trần, hội thề Trung hiếu ở đền thần Đồng Cổ vẫn tiến hành, đến khi nhà Minh sang xâm lược nước ta mới ngừng hoạt động.
Đền thần Đồng Cổ ở Thanh Hóa sách Đại Nam nhất thống chí, mục Thanh Hóa chí ghi: đền toạ lạc trên núi Khả Lao, làng Đan Nê, huyện Yên Định. Tương truyền, đền thần Đồng Cổ ở đây có từ thời Hùng Vương và thường hiển linh giúp Vua Hùng trong các cuộc dẹp loạn cho nên được Vua Hùng phong cho thần Đồng Cổ Đại vương.
Đền Triều Lý, khi Lý Thái Tông còn là Thái tử (Phật Mã), phụng mạng Vua cha là Thái Tổ đem binh đi dẹp loạn ở phía Nam (1020), đến Trường Châu đóng quân tạm nghỉ. Canh ba đêm ấy, Thái tử chợt thấy một dị nhân, thân cao 8 thước, mày râu cứng nhọn, mặc chiến bào, tay cầm binh khí, đến trước cúi đầu tâu rằng: “Tôi là thần núi Đồng Cổ, nghe tin Thái tử sang đánh Phương Nam, tôi xin theo giúp để phá giặc, lập chút công nhỏ”. Thái tử vỗ tay khen ngợi rồi tỉnh dậy luôn. Hôm sau tiến quân đến đất Chiêm, trận ấy quả nhiên đại thắng. Khi khải hoàn về qua Trường Châu, Thái tử bèn sai quân sửa sang lại miếu, lễ tạ, rồi xin rước thần vị về Kinh đô thờ để làm vị thần giữ nước hộ dân.
Khuôn viện của Đền thần Đồng Cổ. (Ảnh: TL)
Thần Đồng Cổ, vị thần linh thiêng có phép thần thông biến hóa phi thường, từng giúp tướng lĩnh và phò Vua ở ngoài mặt trận, còn ở trong Nội cung thần thường báo mộng cho Nhà Vua biết để giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nước, cho nên Tiến sĩ Cao Huy Diệu tiếm bình như sau:
Đại Vương lấy nghĩa danh thần non núi mà bẩm thụ sắc mệnh của Thượng Đế, uy đức lừng lẫy đã lâu trong trời đất, không cần đợi tới Thời Quân, Thế Chúa ca ngợi phong thưởng mới sáng tỏ sự linh dị đâu!
Duy có thương xót cõi đời chìm đắm, lo liệu bất minh, nếu cứ im lặng, không thèm chỉ cho đường mê, thì Thế Chúa trọn đời vẫn không tỉnh ngộ được. Cho nên thần hằng mượn giấc mộng để bảo lấy việc mở lối tự tâm. Đến khi ấy, Thế Chúa mới tôn đó, mới kính đó; mới lập đền thờ đó, và nhân đấy mà phong tặng cho nữa.
Trái lại, những vị danh thần đương ở trong nhân hoàn, có làng nào lại không thờ? Có người nào lại không lạy cầu và dĩnh lễ? Nhưng thần cứ một mực mịt mờ, lặng lẽ để hưởng suông hương lửa của nhân gian, mà hoạ phúc không nghe, có điều không báo ứng, và chỉ chuyên trang sức bề ngoài, làm lâu đài cho tráng lệ, nghi trượng cho rõ ràng, rồi các ông ngồi bật ngửa đó, thực ra để mà làm chi vậy chứ?
Thần Đồng Cổ Đông Sơn, trong đó khởi nguyên là thần Đồng Cổ Ngọc Lũ: kiệt tác có một không hai của nhân loại, vẻ đẹp giàu sang quyền quý, những mô típ hoa văn tinh xảo, kì bí, kí hiệu mật mã ghi trên hợp kim đồng thau không han rỉ; hun đúc hào khí anh linh sông núi, Quốc huy của nước Văn Lang, ấn tín biểu chương Vương quyền, vật bảo bối truyền ngôi của Vua Hùng; bức Thông điệp gửi các dân tộc anh em gần xa đương thời và truyền lại cho muôn đời hậu thế, điểm tựa tinh thần tâm linh cho cộng đồng dân tộc xây dựng và phát triển trong chiều dài của lịch sử.
Nhưng trong một nghìn năm Bắc thuộc vật linh hèm của dân tộc ta bị gọi là đồng cổ loại nhạc khí. Phải đến khi đất nước ta giành lại được quyền tự chủ thì loại vật hèm đó mới được khôi phục lại vị trí tâm linh của cổ vật. Song do đã có tên đồng cổ rồi cho nên thư tịch của nước ta ghi chép trân trọng và gọi là “thần Đồng Cổ”. Nhà nước Đại Cồ Việt Vua Đinh Tiên Hoàng tặng thần Đồng Cổ cho làng Thương Lâm (tỉnh Hà Đông cũ) làm vật linh thờ trong đình làm vị thần Hoàng làng. Cho nên chỉ ở Việt Nam có loại vật linh nhỏ làm bùa hộ mệnh - đeo vào cổ hoặc để đầu giường.
Đền thần Đồng Cổ (Ảnh: LT)
Còn trống đồng ở các nước Đông Nam Á là bắt nguồn từ trống Đông Sơn. Fr. Heger học giả người Áo, sách Những trống kim khí ở Đông Nam Á (1902) đã phân trống đồng làm bốn loại và cho trống đồng loại I xuất xứ đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam, hoặc L. Bezacier người Pháp, sách Lịch sử nghiên cứu trống đồng ở Châu Âu (1972) cho biết, ở các nước Đông Nam Á trống đồng là vật linh thờ cúng của dân địa phương, và H. Loofs Wissowa người Australia với thuyết Biểu chương Vương quyền (1983) cho rằng, có một quyền uy tôn giáo tồn tại ở Bắc Việt Nam trong thời cổ, tương tự với quyền uy của Giáo Hoàng ở Phương Tây. Theo ông, các Tù trưởng bộ lạc ở nhiều nơi của vùng Đông Nam Á đã cử sứ bộ đến Bắc Việt Nam để xin cấp các trống đồng, mà với chúng, họ được làm vua hợp pháp.
Nhưng ở ta, có một thời của thế kỷ trước, do coi nhẹ vấn đề Văn hoá tâm linh chỉ nói Hiện thực, lại theo câu thơ Nghe tiếng trống đồng bạc cả tóc của Trần Phu, cho nên chúng ta đã dựng tiết mục giã trống đồng ở Lễ hội Đền Hùng (1979). Nhưng, nay vấn đề Văn hoá tâm linh đã được khôi phục, tối ngày 17-10- 2010 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã tổ chức Lễ trao tặng trống đồng cho các doanh nghiệp Việt Nam được tổ chức long trọng và hoành tráng, làm sống lại tinh thần của cổ vật này ở thời đại Hùng Vương. Nhưng nếu lễ trao tặng ấy với nghĩa là theo gương xưa, Hội Di sản Văn hoá Việt Nam tổ chức lễ trao tặng sản phẩm văn hoá mang tính biểu tượng quốc gia cho các nhà doanh nghiệp, trong đó vật linh được đặt nơi tôn nghiêm, hoà cùng tiết mục múa hát trang trọng ngợi ca báu vật ấn tín của tổ tiên thời Hùng Vương sáng tạo ra. Thiết nghĩ, việc làm ấy sẽ khác các nước Đông Nam Á, vì chỉ nước ta mới có đền thờ, Nhà nước ta đã tặng vật linh Ngọc Lũ phiên bản cho Liên Hợp quốc, còn ở nhà khách của Quốc hội cũng đặt biểu tượng vật linh này sau tượng Hồ Chủ Tịch - Vật linh Quốc bảo, sau hai nghìn năm lưu lạc ẩn tích, nay đã trở về với chủ, đất nước sẽ thịnh vượng, đi lên. Do đó, hiện vật mà các nhà doanh nghiệp đặt nơi trang trọng để chiêm bái, coi đó như “ấn tín” của thời Hùng Vương trao để quản lý một doanh nghiệp, vật linh sẽ giúp doanh nghiệp hưng vượng, làm ăn phát đạt. Đó mới đúng ý nghĩa tâm linh của cổ vật mà tâm thức truyền nối của dân tộc ta từng tôn vinh, còn như thờ chiếc trống đồng loại nhạc khí thì ý nghĩa không tương xứng với cổ vật.
Tóm lại, cần nhận thức lại đúng tầm giá trị của thần Đồng Cổ Đông Sơn, tôn vinh một cổ vật tâm linh hàm chứa tính minh triết có một không hai của nhân loại, bên cạnh niềm tự hào chính đáng dân tộc ta có một Quốc Tổ Hùng Vương.
Còn việc phục chế cổ vật thì nên phục chế loại cổ nhất, theo cách xếp hạng trong sách Trống Đông Sơn của nhóm Phạm Minh Huyền, từ trống loại A1 đến loại A5: Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa, Sông Đà, Miếu Môn, đó là loại vật linh có kiểu dáng và hoa văn trang trọng hàm nghĩa minh triết.
Dương Đình Minh Sơn