Thư Bác Hồ gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku 19-4-1946

Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku ngày 19 tháng 4 năm 1946, Bác Hồ đã căn dặn: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt”.

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ vừa ra đời đã phải đối phó với thù trong giặc ngoài. Trước tình thế: “Ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc vượt qua một trong những chặng đường khó khăn nhất của lịch sử dân tộc.

Gia Lai là một tỉnh nằm ở Bắc Tây Nguyên – một vị trí chiến lược vô cùng quan trọng ở Đông Dương. Nhiều nhà quân sự đã nhận định: Ai làm chủ Tây Nguyên là làm chủ Đông Dương. Đó cũng là lý do mà thực dân Pháp sớm tìm cách chiếm lại Tây Nguyên. Đứng trước tình hình mới, chính quyền cách mạng đã lãnh đạo nhân dân đoàn kết xây dựng về mọi mặt và chuẩn bị kháng chiến. Biết rõ Nam Trung Bộ nói chung, Tây Nguyên nói riêng là địa bàn có nhiều thành phần dân tộc cư trú. Thực dân Pháp và bọn tay sai dùng mọi thủ đoạn để chia rẽ các dân tộc. Nhận biết âm mưu của địch, để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tháng 3-1946, Ủy ban hành chính Trung Bộ quyết định thành lập Ban vận động quốc dân thiểu số Tây Nam Trung Bộ. Tháng 6-1946, thành lập Phân ban quốc dân thiểu số miền Nam Trung Bộ.

Một số đại biểu tham dự Đại hội Đoàn kết các dân tộc thiểu số miền Nam 

Ở Gia Lai, Phòng Quốc dân thiểu số cũng được thành lập do đồng chí Nguyễn Đức Lang làm Trưởng phòng. Tại địa bàn Tây Nguyên cũng như vùng núi các tỉnh miền Trung, Ban vận động quốc dân thiểu số và phòng Quốc dân miền núi các tỉnh thuộc khu V, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy khẩn trương triệu tập Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam. Ngày 19-4-1946 Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam chống Pháp đã được tiến hành tại Pleiku. Hơn 1.000 đại biểu các dân tộc Tây Nguyên và miền núi các tỉnh đồng bằng Nam Trung Bộ đã về khu vực Ủy ban hành chính tỉnh – lúc đó có ngôi nhà sàn nằm dưới những tán thông và cây long não trên một triền đồi hơi thoải về phía Bắc. Trong Lễ khai mạc, các đại biểu đã tập trung ở cả bên trong và xung quanh nhà sàn, nghe như nuốt từng lời trong lá thư của Bác Hồ gửi đại hội, do đồng chí Tố Hữu - Phái viên của Trung ương và đồng chí Bùi San - đại diện Xứ ủy Trung Kỳ chuyển đến. Bức thư mang ý nghĩa và nội dung sâu sắc về vấn đề đại đoàn kết dân tộc, cùng chung một nhà của tất cả các dân tộc Việt Nam. Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku ngày 19 tháng 4 năm 1946, Bác Hồ đã căn dặn: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt”.

Thạch đá khắc toàn văn Thư Bác Hồ gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam họp tại Pleiku,19-4-1946, tại Quảng trường Đại Đoàn Kết, thành phố Pleiku

Chỉ trên 300 chữ, bức thư hàm chứa nội dung phong phú và sâu sắc. Trong đó có lời động viên kịp thời và mạnh mẽ: “Lòng tôi và Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào”. Thư chỉ ra tài sản quý giá: “Nước Việt Nam là nước chung của chúng ta”,vai trò đại diện cho quyền lực của các dân tộc và quyền lực Nhà nước trong Quốc hội: “Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “NHA DÂN TỘC THIỂU SỐ” để săn sóc cho tất cả các đồng bào”. Thư xác định yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc: “Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta”; “phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta”. Nội dung cuối cùng kết thúc bức thư là sự xác lập một quyết tâm sắt đá: “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta”. Tinh thần Hồ Chủ tịch gửi gắm trong thư rất chân thành, sâu sắc và giàu sức thuyết phục. Trong thư, 5 lần Bác nhắc đến từ “đồng bào”. Mỗi lần nhắc lại từ “đồng bào” chính là Bác thêm một lần nhắc đến nguồn gốc các dân tộc Việt Nam, qua đó kêu gọi quyết tâm giữ vững tình đoàn kết.

Bức thư ngắn gọn, thể hiện tình cảm của Bác Hồ, của Đảng đối với các dân tộc. Bác chỉ rõ các dân tộc thiểu số đều là con cháu Việt Nam đều là anh em ruột thịt, phải đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau và chung sức để giữ vững quyền tự do độc lập của chúng ta, các dân tộc coi thư Bác như “Bản cương lĩnh” của Đảng đối với các dân tộc. Qua Đại hội, các đại biểu càng hiểu thêm âm mưu chia rẽ dân tộc hết sức thâm độc của thực dân Pháp; nhận thức sâu sắc chủ trương kháng chiến, kiến quốc đúng đắn của Đảng và Chính phủ, đồng lòng quyết tâm đứng lên cùng toàn dân đánh thực dân Pháp xâm lược và xây dựng đất nước. Đại hội đoàn kết các dân tộc đã làm cho tình đoàn kết các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên được tăng lên; ghi dấu ấn quan trọng về tinh thần đoàn kết kháng chiến giữa các dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với đồng bào và cán bộ người Kinh trong sự nghiệp cứu nước. Đại hội thể hiện mối quan tâm đặc biệt của Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đối với các dân tộc thiểu số miền Nam và Tây Nguyên.

Bác Hồ gửi thư cho Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam được tổ chức tại Pleiku là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại không chỉ đối với Đại hội và những người dự đại hội mà còn là tư tưởng chiến lược về đại đoàn kết dân tộc, về sức mạnh của nhân dân trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Khắc ghi lời dạy của Bác, khắp núi rừng Tây Nguyên đã dấy lên các phong trào thi đua giết giặc cứu nước. Trong những ngày tháng đói cơm, lạt muối, buôn làng luôn phải di dời để tránh càn, bố phòng đánh địch, người Tây Nguyên vẫn luôn mang trong tim hình ảnh Bác Hồ như điểm tựa sức mạnh tinh thần, vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, phòng đánh địch bảo vệ buôn làng. Theo lời kêu gọi của Bác, đồng bào cả nước đã làm nên chiến thắng 30-4-1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Bác Hồ gửi thư cho Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam viết cách đây 70 năm, nhưng những vấn đề Người nêu trong bức thư vẫn sống mãi với thời gian. Bức thư có giá trị như một bài hịch, vừa tha thiết, vừa sâu sắc của Bác kêu gọi các dân tộc Tây Nguyên đoàn kết trong cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam chống Pháp vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt là trong những năm đầu thế kỷ XXI khi kẻ thù vẫn luôn rình rập, hòng chia cắt khối đại đoàn kết toàn dân, phá hoại thành quả công cuộc đổi mới của chúng ta.

                                                                   Phạm Thị Khoa Thi